Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2016

Quá trình thay đổi pháp luật về quá trình sở hữu (P 4)

Giai đoạn 1992 đến nay

Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mói toàn diện ở đất nước ta đã đạt được những thành tựu bước đầu vô cùng quan trọng, nhất là những năm đầu của thập kỷ 90. Để đáp ứng nhu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới trong giai đoạn hiện nay, Quốc hội đã quyết định sửa đổi Hiến pháp 1980. Hiến pháp sửa đổi (được Quốc hội thông qua ngày 15/4/1992) đã kế thừa những quy định của các bản Hiến pháp trước đây và đã xác nhận chế độ kinh tế của nước ta bao gồm ba hình thức sở hữu chủ yếu.


Điều 15 - Hiến pháp sửa đổi 1992 ghi nhận: "Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sỏ hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong  đó sở hữu toàn dẩn và sở hữu tập thể là nền tảng".

Với xu thế phát triển của một nền kinh tế đa dạng, Hiến pháp sủa đổi 1992 đã xác nhận sự tổn tại của hình thức sở hữu tu nhân, nhiều thành phần kinh tế khác nhau cùng tồn tại và phát triển. Để tạo điểu kiện cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, Nhà nước chủ trương cho các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân phát triển với nhiều hình thức tổ chúc kinh doanh đa dạng. Mức độ và phạm vi của sở hữu tu nhân ngày càng được mở rộng. Điều 21 của Hiến pháp sủa đổi năm 1992 đã quy định: "Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhãn được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt dộng trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh".

Tuy nhiên, Nhà nước vẫn luôn luôn xác định vai trò "nền tàng” của hình thúc sờ hữu toàn dân và sở hữu tập thể; xác định kinh tế quốc doanh (thuộc sở hữu toàn dân) phải là thành phẩn kinh tế giữ vai trò chù đạo trong nền kinh tế quốc dân.

Đối với việc sở hữu tư liệu sản xuất quan trọng là đất đai, Hiến pháp sửa đổi 1992 vẫn tiếp tục khẳng định: "Nhà nước thống nhai quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đám sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả" (diểu 18). So với Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp sửa đổi năm 1992 có quy định cụ thể về việc sử dụng đất. Đó ià: Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài; người sử dụng được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật

Quy định trẽn đây của Hiến pháp sửa đổi năm 1992 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc sửa đổi Luật đất đai năm 1987. Quyền sỏ dụng đất đã được coi là một quyền tài sản có giá trị và có thể chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Tinh thần trẽn của Hiến pháp sủa đổi nám 1992 đã được cụ thể thành nãm quyền của người sử dụng đất trong Luật đất đai 1993 là: Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế quyển sử dung đất Sau này khi ban hành BLDS năm quyền cơ bản trên dây cũng được thu hút vào phần thứ năm của BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005.

Thành tựu lập pháp cao nhất trong lĩnh vực sở hữu đó ỉà các quy đinh vé tài sản và quyền sở hữu tại phần thứ hai BLDS. Vói các quy định tương đối đầy đủ và hoàn thiện về sở hữu chắc chắn sẽ tạo ra nhũng tiền đề thuận tiện cho việc ổn định và phát triển các quan hệ hàng hóa tiền tệ trong nền kinh tế thị trường nhiêu thành phần có sự quản ỉý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các quy định cụ thể vé tài sản và quyền sở hữu ương phần thứ hai BLDS là những "chuẩn mực” pháp lý ổn định, tạo ra hành lang pháp lý an toàn có hiệu lực pháp luật cao sẽ hướng cho quan hệ tài sản phát triển trong một môi trường ổn định và thuận lợi.


Nhìn lại những quy định pháp luật về sở hữu trong giai đoạn từ 1992 đến nay chúng ta thấy ràng pháp luật về sở hữu nói riêng và pháp luật vế dân sự nối chung của Việt Nam đã xích lại gần pháp luật các nước, phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế. Pháp luật về sở hữu ổn định, cổ giá trị pháp lý cao sẽ là yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đều này có ý nghía vô cùng quan trọng khi giao lưu quốc tế này càng mở rộng và nước ta đã chính thức trở thành thành viện chính thức của hiệp hội ASEAN.
Từ khóa tìm kiếm nhiều nhất : Dịch vụ làm giấy phép lao động

Quá trình thay đổi pháp luật về quá trình sở hữu (P 3)

Giai đoạn 1980 -1992

Để đáp ứng với yêu cầu và phù hợp với tình hình cách mạng trong giai đoạn này, năm 1980 Quốc hội đã ban hành bản Hiến pháp mới. Hiến pháp năm 1980 ghi nhận những định hướng chiến lược và trở thành cơ sở pháp lý để xây dựng hệ thống pháp luật nối chung và pháp luật về sở hữu nói riêng.


Là luật cơ bản của Nhà nước, Hiến pháp 1980 đã ghi nhân phạm vi và bản chất của sở hữu Nhà nước mà các bản Hiến pháp 1946, 1959 chưa quy định. Đó là việc khẳng định: Đất đai, rừng núi, sông hồ, hám mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa, các xí nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp quốc doanh; ngân hàng và tổ chức bảo hiểm; công trinh phục vụ lợi ích công cộng; hộ thống đường sắt, đường bộ, đường không... đều thuộc sở hữu toàn dân (Điều 19 Hiến pháp năm 1980).

Đản Hiến pháp 1980 đã ghi nhận các chế độ sở hữu đang tồn tại ờ nước ta bao gồm các hình thức: Sở hữu Nhà nước hay côn gọi là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, và sở hữu cùa công dân (quy định trong các điều 18, 19, 23, 24,27). Hiến pháp 1980 còn quy định một cách cụ thể về các loại khách thể của những hình thức sở hữu nhất định và ưu tiên cho hai hình thức sở hữu được xác định là sở hữu then chốt. Điều 18 của Hiến pháp đã quy định: 'Thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa vê tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nên kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dán và thành phẩn kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động".

Nhằm cụ thể hóa việc thực hiện Hiến pháp nên các văn bản pháp luật về sở hữu trong những năm đầu của thập kỷ 80 vẫn tiếp tục thực hiện chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trong việc thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa. Theo quy định của Hiến pháp, các văn bản pháp luật đã quy định việc giao quyền sử dụng đất đai (gồm cả đất rừng, đát thổ canh.,.) cho người sử dụng để khai thác giá trị của đất nhưng phải bảo đảm quyền quản lý của Nhà nước:

Quyết định số 201/CP ngày 1/7/1980 của Hội đồng Chính phủ vể việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước; Quyết định số 184/HĐBT ngày 6/11/1982 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Hội đống Chính phủ) về việc đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho tập thể và nhân dân trồng cây, gây rừng.
Đặc biệt, từ khi thực hiện chính sách đổi mới của Đảng,Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về sở hữu.

Pháp luật về sở hữu giai đoạn này đã quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu trong các trường hợp cụ thể; đã xử lý đúng đắn vấn đề lợi ích nên đã trở thành động lực thúc đẩy giao lưu dân sự trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước phát triển manh mẽ. Vỉ dụ:Pháp lệnh về thừa kế ngày 10/9/1990; Pháp lệnh về nhà ờ ngày 26/3/1991; Luật đất đai năm 1987; Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp 11/2/1989...


Ngoài ra, dưới góc độ lập pháp cũng cần phải thấy rằng lP   hiệu lực pháp lý của các văn bản pháp luật về sở hữu ban hành trong thòi kỳ 1980 - 1992 cao hơn so với thời kỳ trước năm 1980, do đó tính ổn định cao hơn. Điều này đă tạo ra tâm lý yên tâm và tin tưởng ở sự bảo hộ của pháp luật đối với các quan hệ sở hữu. Qua quá trình áp dụng trong thực tế, các văn bản pháp luật về sở hữu giai đoạn này đã phản ánh đúng quy luật khách quan và có tính khả thi nên phần lớn được thu hút vào Luật đất đai sửa đổi và BLDS.
Từ khóa tìm kiếm nhiều nhất : Dịch vụ làm giấy phép lao động

Quá trình thay đổi pháp luật về quá trình sở hữu (P 2)

Giai đoạn 1959 - 1980

Sau khi kết thúc thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ, cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn mói. Miền Bấc tiến lén xây dựng chủ nghĩa xã hội, Miền Nam tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong điều kiện mới.


Ở miền Nam, dưới các chính thể ngụy quyền Si Gòn, pháp luật dân sự nối chung và pháp luật về sờ hữu nối riêng vẫn áp dụng hai bộ dân luật cũ tại Nam Kỳ và Trang Kỳ. Năm 1972 chính quyền Nguyễn Văn Thiệu có ban hành bô Dân luật, thực chất của bộ Dân luật năm 1972 cũng là việc rút tỉa những nguyên tắc đại cương cùa bộ Dân luật Pháp năm 1804. Quyền tư hữu tài sản trong bộ Dân luật năn 1972 cũng được coi là quyền tuyệt đối.

Ở miền Bắc cùng với việc ban hành hiến pháp mói (Híén pháp 1959), Nhà nước ta đã hoàn thành một cách căn bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đốì với các thành phẩn kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ then chốt trong giai đoạn này là: Xác lập và hoàn thiện chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Điều 12 Hiến pháp 1959 đã khẳng định: "Kinh tế quốc doanh thuộc sỏ hữu toàn dân, giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước bảo đảm phát triển ưu tiên.

Các hầm mỏ, sông ngòi và những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đến thuộc sỏ hữu toàn dân".

Trong giai đoạn này, bên cạnh hình thúc sở hữu Nhà nước còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác như; Sở hữu của các nhà tư sản dân tộc, của những người tiểu thương, thợ thủ công, hộ nông dân cá thể.v.v... Chính vì vậy Hiến pháp 1959 đã xác nhận và bảo hộ những hình thức số hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất là: Hình thúc sở hữu Nhà nước tức là của toàn dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sỏ hữu tập thể của nhân dân lao động, hình thúc sở hữu của người lao động riêng lẻ, và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc (Điều 11 Hiến pháp 1959).

Mục đích cơ bản của chính sách kinh tế của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là "phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội" (Điéu 9 Hiến pháp 1959). Để thực hiện chính sách lớn cùa Đảng và Nhà nước trong giai đoạn này là: Cải tạo xã hội chù nghĩa, thực hiện chủ trương xoá bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, tiến hành công hữu hóa tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, xoá bỏ hoàn toàn việc "người bóc lột người" thông qua các quan hệ tư hữu... Nhà nưóc ta đã ban hành một loạt các vắn bản pháp luật để thực hiện mục tiêu trên. Các văn bản đã được ban hành gồm:

Nghi định 19/CP ngày 29/6/1960 của Hội đồng Chính phủ về chính sách đối với việc cho thuê nhà của tư nhân ở các tỉnh, thành phố và thị xã; Nghị định 115/CP ngày 29/7/1964 quy định về điều lệ cho thuê nhà ở thành phố, thị xã; Quyết định số 188/CP về chính sách xoá bò triệt dể tàn tích chiếm hữu ruộng đất và các hình thức bốc lột thực dân, phong kiến ở Miền Nam Việt Nam; Nghị định 111/CP ngày 14/4/1977 về chính sách quản lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa.


Do bối cành lịch sử giai đoạn 1954 - 1975 đất nước bị phản chìa làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, nên pháp luật về sờ hữu ở Miền Bắc trong giai đoạn này có tinh chât 'mềm dẻo" trong một sô' mặt để thực hiện chính sách mặt trận, đoàn két dán tộc. Tính chưa triệt để trong pháp luật về sớ hũu thời kỳ này thể hiện: khi chúng ta thực hiện cái tạo xã hội chủ nghĩa thì trong một chừng mực nhất định Nhà nước vẫn bào hộ quyên sở hữu vé ruộng đất và các tư liệu sàn xuất khác cùa các hộ nông dân cá thể, người làm thợ thủ cống và nhũng người lao động riêng lẻ khác (Điều 14, 15 Hìẻn pháp 1959). Trong quá trình thực hiện chính sách này, Thủ tuớng Chính phủ cũng đã có Thông tư số 48/TTg ngày 3/6/1963 hướng dẫn về việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật bảo đàm quvền tư hữu về tư liệu sản xuất ở nông thôn. Nhà nước cũng đã ban hành Pháp lệnh ngày 21/10/1970 để trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.

Pháp luật về sờ hữu trong giai đoạn này chưa xác nhận việc công hữu hóa hoàn toàn đất đai (theo quy định của Hiến pháp 1959) nên quyền tư hữu cùa các hộ nông dân cá thể vẫn được Nhà nước bảo hộ cùng vói những quyền sở hữu tài sản khác. Tuv nhiên, Nhà nước nghiêm cấm việc lợi dụng tài sản tư hữu để làm rối loạn nền kinh tế của xã hội, phá hoại kế hoạch kinh tế Nhà nước.


Mặc dù còn có những hạn chế do hoàn cảnh lúc bấy giờ nhưng pháp luật vẻ sở hữu vân là mội công cụ pháp lý quan trọng và có hiệu quả để Nhà nước thực hiện các chủ trương xoá bổ tư hữu vé tư liệu sản xuất, thực hiện chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa và công hữu tư liệu nản xuất; thực hiện các Nghị quyết của Đại hội Đồng lần thứ ỈU, thứ IV là vừa xây dựng, vừa cải tạo, trong cấu tạó có xây dựng... Các vân bản pháp luật vé sở hữu trong giai đoạn này dã tạo ra tiền đề quan trọng có ý nghĩa to lớn trong thời kỷ tiếp theo.
Từ khóa tìm kiếm nhiều nhất : Dịch vụ làm giấy phép lao động

Quá trình thay đổi pháp luật về quá trình sở hữu (P 1)

Giai đoạn 1945 -1959

Cách mạng tháng 8 thành công, ngày 2/9/1945 Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, một Nhà nước công nông kiểu mới đã ra đời. Do nhận thức được vai trò, ý nghĩa của pháp luật nói chung trong đời sống xã hội, và đặc biệt của pháp luật dân sự nói riêng nên chỉ hơn một tháng sau ngày tuyên do I bố độc lập, ngày 10/10/1945 Hồ Chù Tịch đã ký sắc lệnh lát I 90/SL quy định về việc tạm thời sử dụng các luật lệ cũ hiện tư hành ở Việt Nam. Theo tinh thần của sắc lệnh này các bộ luật của chính quyền cũ (gồm bộ Dân luật Giản yếu Nam kỳ ban hành năm 1883, bộ Dân luật Bắc kỳ ban hành năm 1931 và bộ Hoàng Việt trung kỳ hộ luật thường gọi là bộ Dân luật Trung ban hành năm 1936) vẫn có hiệu lực thi hành dưới chế độ Việt Nam dân chu cộng hòa, trong khi chờ đợi việc ban hành pháp luật mới.


Sau khi Quốc hội Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua bản hiến pháp mới vào ngày 9/11/1946, , thì các nguyên tắc cơ bản về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân,quy định vể sở hữu... đã được chính thức ghi nhận. Hiên pháp 1946 đã tạo cơ sở pháp lý và từ dây quyển sở hữu tài sền riêng công dân đã trở thành quyền hiến định.   
   
Cùng với việc ban hành hiến pháp mới và ghi nhận quyền    sở hữu hợp pháp của công dân, thì một trong những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc bấy gỉờ là phải xoá bỏ quyền sở hữu đối với các tư liệu sản xuất quan trọng của thực dân Pháp, của các đế quốc khác, các thế lực phản động và thù nghịch, của giai cấp địa chủ phong kiến. Mọi đặc quyền đặc lợi của các thành phần phản động, bóc lột, ngoại kiều cũng bị xoá bỏ. Việc xây dựng một cơ sở kinh tế mới tập trung trong tay Nhà nước chính là cơ sà vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của thể chế chính trị mới.

Để thực hiện được nhiệm vụ đó, Nhà nước ta đã thực hiện hàng loạt các biện pháp thích ứng và đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để chuyển các tư liệu sản xuất quan trọng vào tay Nhà nước.

Thông qua nhiều sắc lệnh như: sắc lệnh ngày 22/9/1945 về việc bãi bỏ các nghiệp đoàn của chế độ cũ trên toàn Việt Nam. Sắc lệnh này 15/11/1945 về việc bãi bỏ quyên khai trương tuyến đường hoả xa Hải Phòng - Vân Nam; lệnh ngày 22/1/1950 quy định về quyền phân phối cấc nguồn khoáng chất trong nước; sắc lệnh ngày 30/5/1950 quy đình     việc trưng thu, trưng dụng và trưng tập trong thời kỳ kháng chiến v.v. Trên thực tế Nhà nước ta đã chuyển các xí nghiệp hầm mỏ, hệ thống giao thông, bưu điện, các nguồn khoáng sản... thành sở hữu của Nhà nước.

Đặc biệt bằng biện pháp kiên quyết, Nhà nước ta đã ban hành và thực hiện trên quy mô rộng lớn luật cải cách ruộng đất (ngấy 19/12/1953). Tiến trinh cách mạng trong những nám đâu của thập niên 50 từng bước thực hiện thành cổng khẩu hiệu "Người cày cố ruộng". Đây là một két quả có ý nghĩa vô cùng quan trọng cùa cách mạng dân tộc, dân chủ nhãn dân. Bước đầu đfl xoá bò quyền sỡ hữu của địa chủ, phong kiến vé đất dai, đổng thời XẮC ỈẠp nên quyén sở hữu ruộng đất cho nhân dân lao động.

Ngoài việc ban hành các văn bản pháp luật nhầm xoá bỏtĩiệt đế các hình thức sở hữu của chính quyén thực dân phong kiến thì trong giai đoạn này, tròn cơ sở quy định của Hiến pháp 1946 Nhà nước ta cũng ban hành các văn bản pháp luật nhầm bảo vệ quyến sở hữu hợp pháp của công dân: Sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950 vé việc sửa dổi một sò quy lệ và chế định trong dân ỉuẠt; sấc lệnh 85/SL ngày 20/2/1952 ban hành thế lệ trước bạ vé việc mua bán, cho và dổi nhà cửa, ruộng dất; Nghị dịnh 47/NĐ ngày 12/6/1958 của Bộ Giao thông và Bưu điện ban hành quy định điẻu lệ tạm thời vé việc dằng ký các phương tiện vận tải đường sông, thuyên buồm đi biển v.v..

Nhìn chung "Quyền tư hữu tài sản của công dán Việt Nam được bảo dám"(Điéu 12 - Hiến pháp 1946), nhưng theo một tinh thán hoàn toàn mới. Đó là: Người ta chỉ được hướng dụng và sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không thiệt hại đến quyề

n lợi của nhân dân (Điéu 12, Sắc lệnh 97/SL).


Pháp luật về sở hữu giai đoạn 1945 - 1959 đã tạo ra những tiền đề quan trọng trong việc xác lập quan hệ sở hữu mới dưới chính quyền dân chủ nhân dân.
Từ khóa tìm kiếm nhiều nhất : Dịch vụ làm giấy phép lao động

Khái niệm quyền sở hữu

Khi các quan hệ sở hữu tồn tại như một yếu tố khách quan và xuất hiện chế độ tư hữu, thì những người giầu có và quyền thế thấy rằng, nếu chỉ điều hành xã hội bằng phong tục tập quán sẽ không có lợi cho họ. Muốn bảo vệ quyền lợi cho mình, nhất là việc bảo đảm các quan hộ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, thì giai cấp thống trị phải đặt là một cái gì đó khác với tập quán và chỉ giữ lại những cái gì của tập quán có lợi cho mình. Mặt khác, những quan hộ phức tạp mói phát sinh trong xã hội có giai cấp đòi hỏi phải có những phương tiện, công cụ đặc biệt để Nhà nước thực hiện sự thống trị giai cấp.

Cơ sở kinh tế để bảo đảm cho sự thống trị về chính trị và tư tưởng chính là các quan hệ sở hữu có lợi cho giai cấp thống trị* Giai cấp thông trị phải dùng tói một bộ phận củạ pháp luật vê sở hữu để thể hiện ý chí giai cấp của mình. Là một hình thái cua thượng tầng kiến trúc, pháp luật về sở hữu ghi nhận và củng cô địa vị, ghi nhận lợi ích của giai cấp thống trị đối vóỉ việc đoạt giữ các của cải vật chất trước các giai cấp khác trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông. Do đó, trong bất kỳ một Nhà nước nào, luật pháp về sở hữu cũng được sử dụng với ý nghĩa là một công cụ có hiệu quả của giai cấp nắm chính quyền để bảo vệ cơ sở kinh tế của giai cấp đó.

Vì vậy, quyền sở hữu là một phạm trù pháp lý phản ánh các quan hệ sở hữu trong một chế độ sở hữu nhất định, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh những quan hệ về sở hữu trong xã hội. Các quy phạm pháp luật về sở hữu xác nhận, quy định và bảo vệ các quyền lợi của các chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.

Với tư cách là một chế định pháp luật, quyền sở hữu chỉ Ịậ đời khi xã hôi có sự phân chia giai cấp và có Nhà nước. Pháp luật về sở hữu và Nhà nước có cùng một nguồn gốc và không thể tồn tại tách rời nhau, do đó nó sẽ mất đi khi không có Nhà nước.


Pháp luật về sở hữu luôn luôn mang tính chất giai cấp rõ rệt. Trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C. Mác đã chỉ ra rằng: "Nhưng thử hỏi lao động làm thuê, lao động của người ụậ mn ọó tạo ra sở hữu cho người vô sản không? Tuyệt đối không? Nó tạo ra tư bản, tức là cái sở hữu bóc lột lao động”
Từ khóa tìm kiếm nhiều nhất : Dịch vụ làm giấy phép lao động

Thứ Năm, 28 tháng 4, 2016

KHÁI NIỆM SỞ HỮU VÀ QUYỀN SỞ HŨU

Con người 1 với tính cách là một thực thể xã hội chỉ cổ thể tồn tại và phát triển khi có những cơ sở vật chất nhất định. Ngay từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người, ý thức về xã hội, về cộng đồng còn hạn chế nhưng người nguyên thủy đã biết chiếm giữ hoa quả tự nhiên, chim thứ săn bắt được, những công cụ lao động giản đơn để phục vụ cho nhu cầu của mình. Sở hữu được hiểu chính là việc chiếm giữ những sản vật tự nhiên, những thành quả lao động (ngày nay còn giằn cả nhũng tư liệu sản xuất) của xã hội loài người. Nhiều công trình khoa học nghiên cứu lịch sử, xã hồi, triết học'., đều đã thống nhất rằng: Sở hữu - một phạm trù kỉnh tế mang yếu tổ khách quan - xuất hiện và phát triển song song cùng với sự xuất hiện và phát triển của xã hội loài người.
Mặt khác, con người muốn tồn lại phải thông qua các mối quan hệ xã hội. Mối quan hệ giữa người với người trong quá trình chiếm hữu và sán xuất ra của cải vệt chất trong xã hội, là quan hệ sô hữu. Quan hê sờ hữu phản ánh sự chiếm giữ các tư liệu sản xuất các vật phẩm tiều dừng giữa người này vói người khác, giữa tập đoàn này với tập đoàn khác, giữa giai cấp này voi giai cầp khác trong một hình thái kinh tê - xã hội nhất định, Trên cơ sở phân tích các hình thái kinh tê - xã hội, C. Mác đã chỉ ra rằng, bất cứ nền sản xuất nào cùng là việc con người chiếm hữu những đối tượng cùa tự nhiên trong phạm vi một hình thái xả hội nhất định. Vì vậy, sờ hữu là một phạm trù kinh tế.

Tùy thuộc vào bản chất của mồi chẻ độ sẽ có một chế độ sở hữu cùng với những quan hệ sở hữu thích hợp, tương ứng với chế độ xã hội đó.

Trong xã hôi cộng sản nguyên thủy, do tính chất công đồng xã hội cao nên cuộc sổng của mỗi cá nhân hầu như hoàn toàn "hoà tan" vào cuộc trong cuộc sống cộng đồng. Vì vậy, đã tồn tại chế dộ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Trong xã hội cổ sơ này, con người đã bất đầu chiếm giữ và làm chù các đối tượng của tự nhiên, hoa quả hái lượm, thú rừng săn bắt được, các sản phẩm cây trồng... Với một nền sản xuất và tổ chức xã hội giản đơn, nên sở hữu trong thời kỳ nguyên thủy chỉ là một khái niệm để phản ánh mối quan hê giữa con người với nhau trong việc chiếm giữ những vật phẩm của tự nhiên mà họ thu giữ được.

Qua quá trình lao động sản xuất với những kinh nghiệm đã tích luỹ được, trình độ lao động của con người dần dần được nâng cao. Cùng với sự phân công lao động xã hội, chăn nuỡi và trổng trọt ngày càng phát triển, năng suất lao động được nâng dần lên và xuất hiện sự dư thừa sản phẩm. Do năng suất lao động ngày càng cao, hàng hóa trao đổi ngày càng rộng rãi đã làm cho lượng của cải trong xã hội tăng nhanh. Trong xã hội và trong nhiều gia đình đã bắt đầu có tích lũy.

Quá trình phân hóa tài sản bắt đầu hình thành và dẫn đến kẻ giàu, người nghèo trong xã hội. Những người có quyẻn hành trong các thị tộc, bộ lạc tìm mọi thủ đoạn để chiếm đoạt số của cải dư thừa đố làm của riêng. Tính chất cộng đổng của xã hội dần dần bị phá vỡ. Quan hộ bóc lột xuất hiện và trong xã hội đã có sự phân chia đẳng cấp. Xã hội cộng sản nguyên thủy bị tan rã.

Mâu thuẫn giữa những người bị áp bức bóc lột và những kẻ áp bức bóc lột ngày càng quyết liệt và "không thể điều hoà được". Sự phân chia giai cấp ngày càng sâu sắc. Nhằm bảo vệ lợi ích của mình và để duy trì xã hội trong một "trật tự" có lợi cho mình, giai cấp áp bức bóc lột với một tỷ lộ ít trong xã hội thấy cần phải có một bộ máy bạo lực để đàn áp sự phản kháng của giai cấp bị áp bức bóc lột. Từ đây xã hội phân chia thành các giai cấp.đối lập nhau và xuất hiện Nhà nước.

Khi xã hội đã phân chia thành giai cấp thì vấn đề sở hữu có một vai trò rất quan trọng trong việc khẳng định địa vị của mỗi giai cấp trong xã hội. Giai cấp nào sở hữu những tư liệu sản xuất sẽ chiếm địa vị đặc biệt trong xã hội và trở thành những kẻ (người) có quyền quyết định vận mệnh của Hố đòng người lao động; tổ chức sản xuất và phân phối các lợí ích vật chất trong xã hội theo ý chí của mình, làm cho các giai cấp khác phải lệ thuộc vào giai cấp mình. Vì vậy, giai cấp nám tư liệu sản xuất trong tay sẽ là giai cấp quyết định chế độ xã hội, là giai cấp nắm quyền thống trị về chính trị và tư tưởng đối với xã hội.


Toàn bộ những quan hệ sở hữu chủ yếu trong một xã hộí hợp thành chế độ sở hữu của xã hội đó, măt khác mỗí một nhóm quan hệ sở hữu có cùng tính chất lại tạo thành một hình thức sở hữu. Do vậy, chúng ta thấy rằng, tương ứng vối mỗi một phương thức sản xuất có một chế độ sở hữu thích ứng phù hợp với phương thức sản xuất đó và hình thái kinh tế xã hội đố. Mỗi một chế độ sở hữu cố thể tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Các hình thức sở hữu này có vaí trò và vị trí khác nhau như thế nào là tùy thuộc vào tính chất của từng chế độ xã hội.
Từ khóa tìm kiếm nhiều nhất : Dịch vụ làm giấy phép lao độngtư vấn sang tên sổ đỏ. sang tên sổ đỏ cần làm gì

Cách tính thời hiệu (Phần 2)

Thời hiệu khởi kiện có thể bị gián đoạn dù xảy ra nhũng sự kiện nhất định được pháp luật.Trong trướng hợp này thời hiệu tạm dùng, khoảng thời gian díễn ra các sụ kiện đó không tính vào thờỉ hiệu khởi kiện vụ án dán sự, thơi hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sư. Điéu 161 BLDS đẫ quy dính thời gian có những sự kiện xảy ra không tính vào thôi hiệu khôi kiện, thời hiệu yêu cẩu giải quyết việc dần:

+ Có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác làm người có quyền khởi kiện khống thể khởi kiện trong phạm vi thời hiệu. Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khấc phục được mặc dù dã áp dọng mọi biện pháp cần thiết mà khả năng cho phép. Ví dụ: bị taí nạn, ốm đau, thiên tai,...


Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người cố quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết vé việc quyển, lợi ích hợp pháp cùa minh bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyển hoặc nghĩa vụ dân sự của mình. Ví dụ: đi công tác đột xuất, thư tín bị thất lạc...
+ Người có quyền khỏi kiện chưa thành niên, đang bị mất năng lực hành vi dân sự, đang bị hạn chế năng lực hãnh ví dân sạ nhung chua cố người đại diện. Nhũng người này không thể tợ mình yêu cáu Toà án bảo vệ quyển lợi của họ, nên pháp luật quy định tạm ngàng thời hiệu khởi kiện.

Khác vối việc tạm ngừng thời hiệu khởi kiện, trong đổ khoảng thời gian xảy ra trước khi cố sự kiện tạm ngửng vẫn được tính vào thời hiệu chung, thì bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện là việc pháp luật dự liệu nhũng sự kiện, nếu chúng xảy ra thời hiệu khởi kiện được tính lại từ đầu, thời gian trước khi xảy ra sự kiện không tính vào hiệu chung. Theo Điều 162 BLDS thời hiệu khởi kiện bắt đầu lại trong các trường hợp sau:

+ Bên có nghĩa vụ thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đôì với người khởi kiện.

+ Bên có nghĩa vụ thục hiện xong một phẩn nghĩa vụ của mình đôì với nguời khởi kiện.

+ Các bên đã tự hòa giải với nhau.

Trong các trường hợp nêu trên, thối hiệu khởi kiện được bắt đầu lại, kề từ ngày tiếp theo ngày xảy ra sự kiện

Quy định về tạm ngừng thời hiệu khởi kiện nhằm bảo vệ quyền của người có quyền vì những lý do khách quan không thể thực hiện được quyền khởi kiện của họ trong thời gian xảy ra sự kiện khách quan.


Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện khi có một trong các căn cứ được qui định tại Điều 162 BLDS, những trường hợp này do một bên không thục hiện nghĩa vụ, cho nên người có quyền đã khởi kiện và bên có nghĩa vụ công nhận có nghĩa vụ và sẽ hoặc đã thục hiện một phần nghĩa vụ, vì vậy các nghĩa vụ đó phải tiếp tục tồn tại trong một thời hạn nhất định...
Từ khóa tìm kiếm nhiều nhất : Dịch vụ làm giấy phép lao độngtư vấn sang tên sổ đỏ. sang tên sổ đỏ cần làm gì

Cách tính thời hiệu (Phần 1)

Thời hiệu hưởng quyền dân sự và miễn trừ nghĩa vụ dân sự được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu (Điều 156 BLDS). Như vậy, thời hiệu được xác định là "ngày" và về nguyên tắc hai loại thời hiệu này không gián đoạn bởi bất kỳ lý do gì, chúng phải có tính liên tục từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc; nếu có sự kiện làm gián đoạn thì thời hiệu      được tính lại từ đầu, sau khi sự kiện làm gián đoạn chấm dứt (Điều 158 BLDS), căn cứ vào đạc điểm của pháp luật vé thời hiệu mà khỉ pháp luật quy định chủ thể được hưởng quyền hoặc miền trừ nghĩa vụ dân sự theo thời hiệu, thì chỉ sau khi thời hỉệu đó kết thúc, việc hưởng quyền hoặc miễn trừ nghĩa vụ có hiệu lực (khoản 1 Điều 157 ĐLDS).


- Thời hiệu khởi kiện được bắt đầu tính từ thời điểm quyền lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật quy định khác (Khoản ỉ Điéu 159 BLDS)

Trường hợp các bện không quy định thời hạn thực hiện nghía vụ, thì tuỳ theo tính chất của từng quan hệ mà pháp luật cổ những quy định riêng như “bất cứ lúc nào”, “ngay lập tức\“khoảng thời gian hợp lý”, hoặc “khi có yêu cầu”,...

Chỉ sau khi kết thúc thời hạn đố mới coi là thời điểm vi phạm và bắt đầu tính thời hiệu. Trong một số trường hợp, thòi điếm vi phạm là thời điểm xác lạp quan hệ (tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu) hoặc là thời điểm xảy ra một sự kiện nào đổ (thời điểm mở thừa kế)...


Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được tính tử ngày phất sình quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Từ khóa tìm kiếm nhiều nhất : Dịch vụ làm giấy phép lao độngtư vấn sang tên sổ đỏ. sang tên sổ đỏ cần làm gì

Các loaị thời hiệu

Căn cứ vào quy định tậ Điền 155 Độ luật đàn sự thòi hiệu được phân biệt làm ba loại: Thời hưởng quyền dần sự, thời hiệu miễn trừ nghĩa vạ đản sự và thời hiệu khén kiện. Xét vé tổng thế thì các loại thời hiệu này cổ mối liên quan với nhau bởi quyển của một chỏ thể bao gìờ cũng tuông ông với nghĩa vụ của chủ thể khác. Hơn nữa một trong những quyẻn năng của chủthể có quyến là quyền yẽu cầu chù thể cố nghĩa vụ phải thục hiện nghĩa vụ của họ. Do vậy, nểu một chủ thể mất quyển khởi kiện đủ nghĩa vụ chấm dứt


* Thời hiệu hưởng quyền dân sự: Là thời hạn mà khì kết thúc thời hạn để, chủ thể đuợc hưởng quyền dân sự (khoản 1 Điều 155 BLDS). Ở đây, thời hiện là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quyển dân sự cho chủ thể, nhưng khổng phải bất cứ quyền dân sự nào cũng có thể xác lập theo theo hiệu mà chỉ trong những trường hợp pháp luật quy định. Ví dụ: Khoản 1 Điền 247 BLDS năm 2005 quy định thời hiệu làm phát sính quyền sở hữu tài sản cửa nguờì chiếm hữu không cố căn cồ pháp luật nhung phải thoả mãn điểu kiện "ngay tình, Hên tục, công tha ỉ". Tương tự như vậy là các trường hợp được quy định tại các điều 239,241, 242, 243, 244 BLDS, theo đố, người chiếm hữu tài sàn có thể trở thành chủ sở hữu tàỉ sản theo thời hiệu khi đáp úng đủ những điều kiện luật định.

* Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự: Là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó, thì ngưòi có nghĩa vụ dân sự được miễn việc thực hiện nghĩa vụ đó (khoản 2 Điều 155 BLDS).

Khác với thời hiệu hưởng quyền dân sự cho phép chủ thể hưởng quyền khi kết thúc thời hạn luật định, thì trong thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự, người có nghĩa vụ được miễn trừ nghĩa vụ tương ứng với thời điểm kết thúc thời hạn. Khi một chủ thể tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó ( nghĩa vụ tồn tại độc lập vói các trái vụ), thì họ phải thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn do pháp luật quy định. Nếu hết thời hiệu thực hiện nghĩa vụ thì nghĩa vụ chấm dứt.

Xuất phát từ đặc điểm của pháp luật về thời hiệu, từ đặc điểm của các quyền nhân thân không gắn với tài sản của cá nhân, tổ chức, pháp luật quy định thời hiệu hưởng quyền dân sự không được áp dụng đối vói trường hợp chiếm hữu tài sản thuộc sở hữu toàn dân không có căn cứ pháp luật và các quyền nhân thân không gắn với tài sản. Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự không áp dụng trong việc thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với Nhà nước (khoản 3 Điều 157 BLDS). Quy định này nhằm bảo vệ triệt để chế độ sở hữu toàn dân, bảo vệ lợi ích chung cộng đồng và toàn xã hội.

* Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự: Là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện hoặc nộp đơn yêu cầu để Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc, thì mất quyền khởi kiện (khoản 3, 4 Điều 155 BLDS).

Trong quan hệ dân sự, người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền có thể yêu cầu Toà án buộc người có nghĩa vụ thực đúng nghĩa vụ của họ, thông qua các biện pháp .
Vì phù hợp với quy định của luật tố tụng dân sự. Quyền yêu cầu Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quy lợi ích hợp pháp của mình chỉ được thực hiện trong một thời hạn xác định khi các quyền này bị xâm phạm, hạn đó mà chủ thể không thực hiện quyền khởi kiện mất quyền khởi kiện.


Bộ luật dân sự không quy định thời hiệu khởi kiện chung cho các quan hệ dân sự mà chỉ xác định cđc nguy tắc chung nhất về thời hiệu khởi kiện. Bọ luật thời hiệu khỏi kiện cho từng trường hợp riêng biệt. Ví dụ như: Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yệu câu chia t sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỗ quyên thừa kế của người khác là mười nam, kể tử thời điếm nin thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lụí lố ha nam. kổ từ thời điểm mở thừa kế (Điều 645 BLDS ), vé giao dịch dân sự vô hiệu là 2 năm (khoản 1 Điều 136 BLDS).
Từ khóa tìm kiếm nhiều nhất : Dịch vụ làm giấy phép lao độngtư vấn sang tên sổ đỏ. sang tên sổ đỏ cần làm gì

Khái niệm và ý nghĩa của thời hiệu

Trong giao lưu dân sự chủ thể tham gia quan hộ dân sự được hường các quyển và phải thực hiện các nghĩa vụ dân sự.

Sự ổn định các quan hộ dân sự là một trong những mục đích trước điều chỉnh của pháp luật dân sự.Mặt khác, đối tượng của phái giao lưu dân sự chủ yếu là tài sản để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh, cho nên tài sản luôn có sự pha! biến đổi vé hình thức và tính năng,tác dụng, do vậy cùng vói sự thay đổi vé thời gian thì tài sản  có thể không còn tổn tại. 
      
Khi có hành vi vi phạm đến quyền tài sản của mình, người   khởi kiện phải chứng minh nguồn gốc tài sản, loại tài sản,hình thức của tài sản... tuy nhiên, với thời gian càng lâu thì việc chứng minh càng gặp khó khăn và nhiều trường hợp khổng thể chứng minh được. Do vậy pháp luật qui định một thời hạn nhất dinh cho sự phát sinh, tồn tại hay chấn dứt quyển nghĩa vụ dân sự, thời hạn này được gọi là thời hiệu.

Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc mất quyền khởi kiện (Điều    thứ 155 Bộ luật dân sự). Như vậy, thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định, các chủ thể tham gia vào quan hệ không thể thoả thuận để kéo dài hoặc rút ngắn thời hạn này.


Thời hiệu đóng một vai trò quan trọng trong việc ổn định     các quan hệ dân sự. Nếu không quy định thời hiệu, mỗi chủ thể tham gia vào quan hộ dân sự luôn bị đe dọa bởi tranh chấp có thể xảy ra, làm ảnh hưởng đến quyền lợi và đời sống của họ. Hơn nữa các căn cứ phát sinh quan hệ dân sự do thời gian làm cho quá trình chứng minh phức tạp. Khi giải quyết các tranh chấp dân sự, Toà án cần phải tiến hành điều tra thu thập chứng cứ để xác định sự thật khách quan nên nếu thời gian đã qua đi quá lâu, quá trình thu thập chứng cứ khó bảo đảm chính xác.
Từ khóa tìm kiếm nhiều nhất : Dịch vụ làm giấy phép lao độngtư vấn sang tên sổ đỏ. sang tên sổ đỏ cần làm gì

Thứ Tư, 27 tháng 4, 2016

Thời hạn

Thời gian theo khái niệm chung nhất dưới góc độ triết học là một khái niệm thể hiện trình tự biến đổi cùa thế giới bằng vật chất. Thòi gian luôn mang tính khách quan, khống có bắt đầu và kết thúc, trôi dần đều theo một chiêu duy nhất và định không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con ngưởi. Còn thời định hạn là một khoảng thời gian, có điểm đầu và điểm cuối xác   hợp định. Do vậy, thòi hạn vừa mang tính khách quan của thời gian nói chung, đồng thời lại mang tính chủ quan của người định ra điểm đầu và điểm cuối.
Trong giao lưu dân sự thời hạn có vai trò quan trọng hoặc trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ thể tham gia. Thòi hạn với tư cách là một sự kiện pháp lý đặc biệt làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong những trường hơp do pháp luât quy định hoặc các bên thoả thuận.

Dựa vào trinh tự xác lập mà thời hạn được phân thành 3 nhóm như sau:     

- Thời hạn do luật định: Là thời hạn pháp luật quy định bắt buộc đối với các chủ thể tham gia giao dịch, chủ thể khổng được phép thay đổi thời hạn đó. Ví dụ: thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, thời hiệu khởi kiện về thừa kế...

-           Thời hạn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền an định;thời hạn cho phép các bên trong giao dịch khắc phục các sai phạm về hình thức của giao dịch (Điểu 134 BLD),,,,

-           Thời hạn do các chủ thể tự xác định: thời hạn thuê tài sản, thời hạn thực hiện công việc gia công,,,,

Dựa vào tính xác định mà thời hạn được phân thành:

+Thời hạn xác định: Là loại thời hạn được quy định  bằng cách xác định chính xác thời điểm bắt đầu, kết thúc,

+Thời hạn không xác định: Là thời hạn trong đó chỉ quy định một cách tương đối khoảng thời gian mà không xác định đuợc một cách chính xác thời gian đó. Trong các trường hợp này, luật thường sử dụng các thuật ngữ: "kịp thời" "khoảng thời gian hợp lý",“khi có yêu cầu...

Trường hợp các bên không thoả thuận vé thời điểm kết thúc thời hạn thì thời hạn kết thúc khi bên có quyền yêu cầu hoặc bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ.

Trường hợp các bên thoả thuận vể thời điểm đầu tháng,giữa tháng, cuối tháng, đầu năm, giữa năm, cuối hăm thì các ngày tương ứng là ngày 1, ngày 15, ngày cuối cùng của tháng đó, ngày 1 tháng i, ngày 30 tháng 6, ngày 31 tháng 12. Tuy nhiên, nếu những ngày này là ngày chủ nhật, ngày nghỉ lễ thì thời han cũng đươe xác dinh theo quy tắc chung ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó mới là ngày kết thúc thời hạn.
Từ khóa tìm kiếm nhiều nhất : Dịch vụ làm giấy phép lao độngtư vấn sang tên sổ đỏ. sang tên sổ đỏ cần làm gì

Chấm dứt đại diện

Cũng như các quan hệ pháp luật dân sự khác,dại diện không tồn tại mãi. Nó chấm dứt khi xảy ra những điều kiện pháp lý nhất định. Khi chấm dứt đại điện, mọi hậu quẩ pháp lý phát sinh từ giao dịch dân sự do người dại diện xốc lập, thực hiện đều không có giá trị pháp lý đối vớt ngưoi được đại diện.


a. Đối với cá nhân

* Đại diện theo pháp luật của cá nhân chấm dứt trong cốc trường hợp sau (khoản 1 Điều 147 BLDS ).
-Người được đại diện đã thành niên hoặc nang lực hành vi dần sự đã được khôi phục. Trong trường hợp này người được đại diện đã đầy đủ năng lực hành vi dân sự dể tự minh thực hiện quyền, nghĩa vụ và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, quan hệ đại diện không cần phải tiếp tục tồn tại.

-Người đại diện hoặc người được đại diện chết làm chấm dứt tư cách chủ thể mọi quan hệ pháp luật của họ, trong dớ có quan hệ đại diện.

-Các trường hợp khác do pháp luật quy định.

* Đại diện theo uỷ quyền của cá nhân chấm dứt trong các trường hợp sau (khoản 2 Điều 147 Bộ luật dân sự):

-           Thời hạn uỷ quyền đã hết hoặc công việc dược uỷ quyền đã hoàn thành.

-           Người uỷ quyền huỷ bỏ việc uỷ quyền hoặc người được uỷ quyền từ chối việc uỷ quyền. Trong trường hợp này quan hệ uỷ quyền chấm dứt theo ý chí của các chủ thể khi xuất hiện điều kiện để họ huỷ bỏ hoặc từ chối việc uỷ quyền.

-           Người uỷ quyèn hoặc người được uỷ quyền chết, bị Toà án tuyên bô mắt năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án tuyên bố mất tích hoặc tuyên bố chết. Mỗi sự kiện trong số các sự kiện này đều làm cho việc uỷ quyền trở nên không thể thực hiện được, quan hệ đại diện phải chấm dứt.

Xuất phát từ đặc điểm của đại diên theo uỷ quyền là người đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, đem lại hậu qụả pháp lý cho người được đại diện nên khoản 2 Điểu 147 BLDS năm 2005 còn quy định khi chấm dứt đại diện theo uỷ quyền, người phải thanh toán. 

b. Đối với pháp nhân

-           Đại diện theo pháp luật của pháp nhân chấm dút khi pháp nhân chấm dứt (khoản 1 Điều 148 BLDS). Đó là các trường hợp: hợp nhất pháp nhân, sáp nhập pháp nhân, chia pháp nhân, giải thể pháp nhân, pháp nhân bị tuyên bố phá sản theo quy định cùa pháp luật về phá sản. Pháp nhân chấm dứt đổng thời làm chấm dứt đại diện theo pháp luật của pháp nhân.


-           Đại diện theo uỷ quyền của pháp nhân châm dứt trong các trường hợp: khi hết thời hạn uỷ quyền hoặc cộng việc được uỷ quyền đã hoàn thành; khi người đại diện theo pháp I luật cùa pháp nhân huỷ l^ yiêc uỵ quyền; khi pháp nhân chấm dứt hoặc người được uỷ quyền chết, bị Toà án tuyên bô' mất năng lực hành vi dân sự, hị hạn chế nâng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết (khoản 2 Điểu 148 BLDS)
Từ khóa tìm kiếm nhiều nhất : Dịch vụ làm giấy phép lao độngtư vấn sang tên sổ đỏ. sang tên sổ đỏ cần làm gì