Thứ Năm, 18 tháng 9, 2014

Năng lực chủ thể của pháp nhân

Pháp nhân tham gia vào các quan hộ pháp luật như là một chủ thể bình đẳng, độc lập với các chủ thể khác, cho nén pháp nhân phải có năng lực pháp luật và nâng lực hành vi. Khác với năng lực chủ thể của cá nhân, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân phát sinh đổng thời và tổn tại tương ứng cùng với thời điểm thành lập về đình chi pháp nhân đối với các pháp nhân theo quy định phải đăng ký hoạt động, thì chủ thể phát sinh kể từ thời điểm đăng ký.

Mỗi một pháp nhân được thành lập đều có mục đích và nhiệm vụ nhất định (sản xuất kinh doanh hay một nhiệm vụ xã hội khác). Bởi vậy năng lực chủ thể của pháp nhân phải phù hợp với mục đích hoạt động của pháp nhân dó. Mục đích của pháp nhan được xác định bối quyết định thành lập pháp nhân hoặc điều lệ của pháp nhân do cơ quan cổ thẩm quyển đã thành lập pháp nhân đó chuẩn bị . Việc thay đổi mục đích hoạt động dẫn đến thay đổì năng lực chủ thề của pháp nhân. Năng lực chủ thể của pháp nhân là chuyên biệt, phù hợp với mục đích và linh vực hoạt động cùa nó. Bởi vậy, các pháp nhân khác nhau có năng lực chủ thể khác nhau.

Để tham gia vào các quan hệ pháp luật, pháp nhân phái thông qua hoạt động của mình (hoạt động ở đầy khổng đẻ cập đến những hoạt động bên trong của pháp nhan như tổ chức sản xuất kinh doanh, điều hành cán bộ),, là các hoạt động bẽn ngoài như những chù thể khác độc lập tham gia các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ dần sự nói riêng.

Mọi hoạt động của pháp nhân được tiên hành thông qua hành vi những cá nhân - người đại diện của pháp nhân. Hành vi của những cá nhân này không phải tạo ra quyền và nghĩa vụ cho họ mà nhăn danh pháp nhân tạo ra các quyền và nghĩa vụ cho pháp nhân đó. Đại diện của phắp nhân được thực hiện dưới hai hình thức:

- Đại diện theo pháp luật (đại diện đương nhiên). Người đại diện theo luật của pháp nhân được xác định tại khoản 4 Điều 141 BLDS “người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Người đại diện của pháp nhân có quyển nhân danh pháp nhân thực hiện các hành vi nhằm duy trì sự hoạt động của pháp nhân trong khuôn khổ pháp luật và điều lệ quy định (ký kết các hợp đồng và thực hiện các giao dịch khác).

-           Đại diện theo uỷ quyền. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho người khác thay mình, nhân danh pháp nhân thực hiện các giao dịch; có thể uỷ quyền cho cá nhân là thành viên của pháp nhân hoặc cá nhân khác; có thể uỷ quyền cho một pháp nhân khác giao kết, thực hiện các giao dịch. Người được uỷ quyền thực hiện các giao dịch trong phạm vi thẩm quyền được xác lập theo văn bản uỷ quyền và chỉ được uỷ quyền lại nếu người uỷ quyền đồng ý. Văn bản uỷ quyền phải xác định rõ thẩm quyền của người được uỷ quyền, nội dung và thời hạn uỷ quyền.

Trong hoạt động của pháp nhân hiện nay, tồn tại một thực tế là uỷ quyền chuyên biệt trong cơ quan của pháp nhân. Người đứng đầu pháp phân cấp cho cấp phó của mình mảng công việc nhất định và có thể được thông báo cho các bên đối tác biết. Có thể xem đây là uỷ quyền thường xuyên cho những người này.


-           Hành vi của thành viên pháp nhân: Hoạt động của pháp nhân còn thông qua hành vi của thành viên pháp nhân. Thành viên của pháp nhân khi thực hiện nghĩa vụ lao động của họ đối với pháp nhân theo hợp đồng lao động được xem là hành vi của pháp nhân, mà không phải là hành vi của cá nhân. Những hành vi đó tạo ra quyền và nghĩa vụ cho pháp nhân nếu hành vi này thực hiện trong khuôn khổ nhiệm vụ được giao. Họ là người trục tiếp thực hiện các nhiệm vụ của pháp nhân (giao hàng, nhận hàng, thực hiện các công việc...). Bởi vậy, nếu họ không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ hoặc hành vì của họ gây thiệt hại cho người khác được xem là hành vi của pháp nhăn; lỗi của những người này là lỗi của pháp nhân và pháp nhân phải chịu trách nhiệm do những hành vi gây thiệt hại của họ gây ra.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét