Pháp nhân tham gia vào
các quan hộ pháp luật như là một chủ thể bình đẳng, độc lập với các chủ thể
khác, cho nén pháp nhân phải có năng lực pháp luật và nâng lực hành vi. Khác với
năng lực chủ thể của cá nhân, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp
nhân phát sinh đổng thời và tổn tại tương ứng cùng với thời điểm thành lập về
đình chi pháp nhân đối với các pháp nhân theo quy định phải đăng ký hoạt động,
thì chủ thể phát sinh kể từ thời điểm đăng ký.
Mỗi một pháp nhân được
thành lập đều có mục đích và nhiệm vụ nhất định (sản xuất kinh doanh hay một
nhiệm vụ xã hội khác). Bởi vậy năng lực chủ thể của pháp nhân phải phù hợp với
mục đích hoạt động của pháp nhân dó. Mục đích của pháp nhan được xác định bối
quyết định thành lập pháp nhân hoặc điều lệ của pháp nhân do cơ quan cổ thẩm
quyển đã thành lập pháp nhân đó chuẩn bị . Việc thay đổi mục đích hoạt động dẫn
đến thay đổì năng lực chủ thề của pháp nhân. Năng lực chủ thể của pháp nhân là
chuyên biệt, phù hợp với mục đích và linh vực hoạt động cùa nó. Bởi vậy, các
pháp nhân khác nhau có năng lực chủ thể khác nhau.
Để tham gia vào các
quan hệ pháp luật, pháp nhân phái thông qua hoạt động của mình (hoạt động ở đầy
khổng đẻ cập đến những hoạt động bên trong của pháp nhan như tổ chức sản xuất
kinh doanh, điều hành cán bộ),, là các hoạt động bẽn ngoài như những chù thể
khác độc lập tham gia các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ dần sự nói
riêng.
Mọi hoạt động của pháp
nhân được tiên hành thông qua hành vi những cá nhân - người đại diện của pháp
nhân. Hành vi của những cá nhân này không phải tạo ra quyền và nghĩa vụ cho họ
mà nhăn danh pháp nhân tạo ra các quyền và nghĩa vụ cho pháp nhân đó. Đại diện
của phắp nhân được thực hiện dưới hai hình thức:
- Đại diện theo pháp luật
(đại diện đương nhiên). Người đại diện theo luật của pháp nhân được xác định tại
khoản 4 Điều 141 BLDS “người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp
nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Người đại diện của
pháp nhân có quyển nhân danh pháp nhân thực hiện các hành vi nhằm duy trì sự hoạt
động của pháp nhân trong khuôn khổ pháp luật và điều lệ quy định (ký kết các hợp
đồng và thực hiện các giao dịch khác).
- Đại diện theo uỷ quyền. Người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho người khác thay mình, nhân
danh pháp nhân thực hiện các giao dịch; có thể uỷ quyền cho cá nhân là thành
viên của pháp nhân hoặc cá nhân khác; có thể uỷ quyền cho một pháp nhân khác
giao kết, thực hiện các giao dịch. Người được uỷ quyền thực hiện các giao dịch
trong phạm vi thẩm quyền được xác lập theo văn bản uỷ quyền và chỉ được uỷ quyền
lại nếu người uỷ quyền đồng ý. Văn bản uỷ quyền phải xác định rõ thẩm quyền của
người được uỷ quyền, nội dung và thời hạn uỷ quyền.
Trong hoạt động của
pháp nhân hiện nay, tồn tại một thực tế là uỷ quyền chuyên biệt trong cơ quan của
pháp nhân. Người đứng đầu pháp phân cấp cho cấp phó của mình mảng công việc nhất
định và có thể được thông báo cho các bên đối tác biết. Có thể xem đây là uỷ
quyền thường xuyên cho những người này.
- Hành vi của thành viên pháp nhân: Hoạt
động của pháp nhân còn thông qua hành vi của thành viên pháp nhân. Thành viên của
pháp nhân khi thực hiện nghĩa vụ lao động của họ đối với pháp nhân theo hợp đồng
lao động được xem là hành vi của pháp nhân, mà không phải là hành vi của cá
nhân. Những hành vi đó tạo ra quyền và nghĩa vụ cho pháp nhân nếu hành vi này
thực hiện trong khuôn khổ nhiệm vụ được giao. Họ là người trục tiếp thực hiện
các nhiệm vụ của pháp nhân (giao hàng, nhận hàng, thực hiện các công việc...).
Bởi vậy, nếu họ không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ hoặc hành vì của
họ gây thiệt hại cho người khác được xem là hành vi của pháp nhăn; lỗi của những
người này là lỗi của pháp nhân và pháp nhân phải chịu trách nhiệm do những hành
vi gây thiệt hại của họ gây ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét