Thứ Ba, 16 tháng 9, 2014

Phân biệt năng lực pháp luật và năng lực hành vi(phần 1)

Nếu pháp luật quy định năng lực pháp luật của mọi cá nhân là như nhau, thì lại xác định năng lực hành vi của cá nhân không giống nhau. Những cá nhân khác nhau có nhận thúc khác nhau vệ hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Việc nhận thức và làm chủ hành vi của cá nhân phụ thuộc vào ý chí và lý trí của cá nhân đó, phụ thuộc vào khả năng "nhận thức và điều khiển" đựợc hành vi của chính họ. Căn cứ vào khả năng của cá nhân về nhận thức và điều khiển được hành vi và hậu quả của hành vi, pháp luật phân biệt mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tuy nhiên khó có tiêu chí để xác định khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân, do đó độ tuổi của cá nhân được xem là tiêu chí chung nhát để phân biệt mức độ năng lực hành vi của cá nhân.

Năng lực phấp luật: 
là khả năng của cá nhân (thể nhân), pháp nhân (tổ chức, cơ quan) hưởng quyền và nghĩa vụ theo luật định. NLPL là hiện tượng pháp lí độc lập. Trong pháp luật dân sự, NLPL của cá nhân xuất hiện từ khi người đó sinh ra và mất đi khi người đó chết. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995 quy định “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và có nghĩa vụ dân sự; mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau” (điều 16). Nội dung NLPL của cá nhân quy định tại điều 17: “Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản; quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản; quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó”. “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không thể bị hạn chế trừ trường hợp do pháp luật quy định” (điều 18). 
a. Năng lực hành vi đầy đủ.

Người thành niên là người từ đủ 18 tuổi, trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. trừ trường hợp bị tuyên bố mất năng lực hành vi hoặc hạn chế hành vi dân sự. Pháp luật chỉ quy định độ tuổi tối thiểu mà không quy định độ tuổi tối đa của những người có năng lực pháp luật dân sự đầy đủ. Những người này có đầy đủ tư cách chủ thể, toàn quyền tham gia vào quan hệ dân sự với tư cách là chủ thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về những hành vi do họ thực hiện. Những người từ đủ 18 tuổi trở lên được suy đoán là cộ người cổ năng lực hành vi đầy đủ. Họ chỉ bị mất năng lực hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi khi có quyết định của Toà án về việc hạn chế hoặc mất năng lực hành vỉ dân sự. (theo quy định của luật HN&GĐ thì nữ từ 18 (17 tuổi 1 ngày) tuổi trở lên có quyền kết hôn, do vậy theo quy định này thì nữ đủ tuổi kết hôn vẫn có thé chưa có đầy đủ năng lực hành vi).

b. Năng lực hành vi một phần

Người có năng lực hành vi một phần (không đầy đủ) là những người chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định.
"Người từ đủ 6 tụổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch phục vụ cho nhu cẩu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác " .

"Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có tài sản riêng đủ để thực hiện nghĩa vụ được xác lập, thực hiện giao dịên và phải chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản họ có, trừ trường hợp pháp luật quy định khác" (Điều 20 - BLDS).

Như vậy, cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là những người có năng lực hành vi dân Sự một phân. Họ có thể bằng hành vi của mình tạo ra quyền và phải chịu những nghĩa vụ khi tham gia các giao dịch để thoả mãn những nhu cầu thiết yếu hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Tuy pháp luật không quy định nhũng giao dịch nào là giao dịch "phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày" và "phù hợp với lứa tuổi" nhưng có thể hiểu đó là những giao dịch có giá trị nhỏ, phục vụ những nhu cầu học tập, vui chơi trong cuộc sống được coi là những người đại diện của họ cho phép thực hiện mà không cần sự đồng ý trực tiếp của những người đại diện (mua dụng cụ học tập, ăn quà, vui chơi giải trí...).

Trên thực tế những lứa tuổi khác nhau có những nhu cầu khác nhau. Người đại diện của những cá nhân ở lứa tuổi này có thể yêu cầu tuyên bố những giao dịch do người chưa thành niên thực hiện mà không cố sự đồng ý của họ là vô hiệu" và Toà án xem xét trong những trường hợp cụ thể để chấp nhận yêu cầu đó theo quy định tại Điều 130 BLDS. Nếu những người đại diện không yêu cầu Toà án xem xét tính hiệu lực của những giáo dịch này, thì những giao dịch đó mặc nhiên được coi là có hiệu lực.


Những người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi CÓ thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch trong phạm vi tài sản riêng mà họ có và không cần sự đồng ý của người đại diện. Trong trường hợp pháp luật có quy định về"sự đồng ý của người đại diện" thì áp dụng tương tự như trường hợp vị"thành niên nói chung" (như đi chúc của người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, việc định đoạt tài sản là nhà ở và đất đai...).
Bài đọc tiếp: Năng lực hành vi phần 2

2 nhận xét: