Cùng với quan hệ tài sản,
luật dân sự còn điều chỉnh "Các quan hệ nhân thân" (Điều 1 BLDS năm
2005), Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người về một giá trị nhân
thân của cá nhân,háy các tổ chức. Việc xác định một giá trị nhân thân là quyền
nhân thân phải được pháp luật thừa nhận như một quyển tuyệt đối của một cá
nhân, tổ chức. Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền vói một chủ thể, về nguyên tắc không thể chuyển giao cho chủ thể khác. Đó là một quyền dân sự tuyệt
đối, mọi người đều có nghĩa vụ tôn trọng quyền nhân thân của người khác.
Các quyền nhân thân được
nhiều ngành luật điều chỉnh. Luật hành chính quy định về trình tự, thủ tục để
xác định các quyền nhân thân: phong các danh hiệu cao quý của Nhà hước; tặng
thưởng các loại huân, huy chương; công nhận các chức danh... Luật hình sự bảo vệ
các giá trị nhân thân bằng cách quy định: những hành vi nào khi xâm phạm đến những
giá trị nhân thân nào được coi là tội phạm (như các tội: Vu khống, Làm nhục
ngưòi khác, Làm hàng giả..,).
Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ nhân thân
bằng cách quy định những giá trị nhân thân nào được coi là quyền nhân thân,
trình tự thực hiên, giới hạn của các quyền nhân thân đó,đồng thời quy định các
biện pháp thục hiện, bảo vệ các quyền nhân thân (Điều 25 BLDS năm 20Q5),
Các quan hệ nhân thân
xuất phát từ quyền nhân thân do luật dân sự điều chỉnh cố thể chia làm hai
nhóm:
- Quan hệ nhân thân gắn với tài sản;.
- Quan hệ nhăn thân không gắn với tài sản.
Những quan hệ nhân thân
do luật dân sự điều chỉnh cố những đặc điểm sau;
- Quyền nhân thân luôn gắn liền vói một
chủ thể nhất định và không thể dịch chuyển được cho các chủ thể khác. Tuy
nhiên, trong những trường hợp nhất định có thể được dịch chuyển. Những trường hợp
cá biệt này phải do pháp luật quy định (quyền cồnịg bố tác phẩm của tác giả các
tác phẩm, các đối tượng sở hữu công nghiệp...).
- Quyền nhân thân không xác định được bằng
tiền - Giá trị nhân thân và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương
và không thể trao đổi ngang giá. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản như
danh dợ, nhãn phẩm, uy tín của cá nhân, danh dự, uy tín có tổ chức; quyền đối
vối họ, tên; thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc, thay đổi dân tộc; quyền đối với hình ảnh; với bí mật đời tư; quyền kết hôn, ly hôn... (từ Điều 24 đến Điều
51 BLDS). Luật dân sự ghi nhận những giá trị nhân thân được coi là quyền nhân
thân và quy định các biện pháp bảo vệ các giá trị nhân thân đó. Mỗi một chủ thể
có những giá trị nhân thân khác nhau nhưng được bảo vệ như nhau khi các giá trị
đó bị xâm phạm. Khi quyền nhân thân bị xâm phạm thì chủ thể có quyền tự mình cải
chính,yêu cầu người có hành vi xâm phạm hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm: xin lỗi, cải chính công
khai; tự mình cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; yêu cầu người
vi phạm hoặc yêu cầu Toà án buộc người vi phạm phải bồi thường một khoản tiền để
bù đắp những tổn thất về tinh thần.
Các quan hệ nhân thân gắn
với tàỉ sản là những giá trị nhân thân khi được xác lập làm phát sinh các quyền
tãi sản. Quyền nhân thân là tiền đề làm phát sinh các quyền tài sản khi có những
sự kiện pháp lỷ nhất định như tác giả các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học
kỹ thuật; quyền tác giả các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp...
được hưởng tiền nhuận bút; thù lao; được hưởng tiền do áp dụng các đối tượng sở
hữu công nghiệp nêu trên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét