Các tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tố chức chính trị- xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội
- nghề nghiệp và tổ chức xã hội (sau đây gọi tát sỡ hữu của các tổ chức) lồ những
tổ chức được thành lập theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Mục đích thành lập
không phải vì lợi nhuận. Mỗi tố chức có nhiệm vụ và tôn chỉ khác nhau nhưng tựu
chung đều vì lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng. Vì vậy co chế quản lý, sử dụng
tài sản của các tổ chức tương đối giống nhau.
Sở hữu của các tổ chức
là một phạm trù kính tế đế chỉ một loại hình sở hữu về tài sản là những cơ sớ vật
chất, kỹ thuật, trang thiết bị, vốn, các loại quỹ... của các tổ chức đớ. Sở hữu
của các tổ chức là sở hữu của một pháp nhân đế thực hiện những nhiệm vụ, mục
đích được ghi trong điều lệ. Nhiệm vụ, mục đích hoạt động của các tổ chức trôn
đây cớ thể thuộc các lĩnh vực khác nhau như: chính trị, xâ hội, nhân đạo hoặc
nghề nghiệp... Tuy nhiên các tổ chúc sử dụng tài sản ậể duy trì hoạt động của
mình là chủ yếu.
Sở hữu của các tổ chức là
sở hữu của một pháp nhân, nhưng mang tính chất cộng đổng khác hình thức sở hữu
tập thể và sở hữu chung thông thường. Việc quản lý tài sản của các tổ chức cũng
khác với các cơ quan, doanh nghiệp của Nhà nước. Tài sản của các tổ chức được
quản lý theo nguyên.
Ngày càng góp phần to lớn
vào công cuộc xây dựng và bảo vệ là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước và phát huy
tính tích cực trong tnọi lĩnh vục của đời sống xã hội. Các tổ chức như: Đảng cộng
sản Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chỉ Minh, Tổng liên đoàn lao động Việt
Nam, Hột hèn hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội chữ thập đỏ, Hội nhà văn, Hội nứng dân,
Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Liên minh các hợp tác xã, Hội văn hoá nghệ thuật,
các hội theo ngành nghề về và các Hiệp hội khoa học kỹ thuật...
Môi một tổ chức nêu
trên đều có những hoạt động mang tính đặc thù phản ánh vị trí, vai trò của mình
trong hệ thống chỉnh trị và trong đời sồng xã hội. Các tổ chức là chủ sở hữu
trong quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu và luôn nhân danh tổ chức mà khủng
nhân danh nhà nước.
Để trở thành chỏ thể
quyền sở hữu trong quan hệ pháp luật dân sự. các tổ chức chính trị-xã hội - nghề
nghiệp khác những chủ thể khác trong pháp luật dân sự ở chỗ: Các tổ chức đổ phải
tà một tổ chức tự nguyện, thống nhất của người lao động cùng chung một lợi ích
hay cùng giai cấp hoặc cùng một nghé nghiệp. Các tổ chức được tổ chức và hoạt động
theo điêu lệ do các thành viên trong tổ chức xây dựng nến hoộc theo các quv định
của Nhà nước.
Trong quá trình hoạt động,
với tư cách là chủ thể sở hữu, cốc tổ chửc được thục hiện các quyền năng của chủ
sở hữu trong các lĩnh vục chiếm hữu tài sản, khai thác lợi ích vật chất cúa tài
sán hoặc thực hiện quyền định đoạt tài sản. Các tó chức thực hiện các quyền
nâng của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu của mình nhằm thực hiện chức
năng của tổ chửc dổ. Việc quản lỷ, khai thác công dụng và định đoạt tài sản phải
tuân theo các quy định của pháp luật và phù hợp vdi mục đích hoạt động của mỗi
loại hình tổ chức đã được quy định trong điều lệ.
Tuỳ thuộc vào mỗi loại
hình tổ chức, tính chất, chức nâng, nhiệm vụ mà chủ thể sở hữu của các tổ chức
được ghi nhận khác nhau. Ví dụ: Đối với tổ chức chính trị, mục 2, Điểu 46 Điều
lê Đảng cộng sản Việt Nam quy định: "Bộ chính trị quy định thống nhất
nguyên tắc, chế độ quản lý tài chúứi, tài sản của Đảng". Điểu 25 Điều lệ
Công đoàn Việt Nam lại quy định: "Tổng liên đoàn lao động Việt Nam là người
chủ sỏ hữu mọi tài sản của công đoàn Việt Nam”. Việc quản lý tài chính, tài sản
của hệ thống công đoàn theo quy định riêng của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
phù hợp với pháp luật của Nhà nước (Điều 36).
Tóm lại: Mỗi tổ chức là
một chủ sở hữu riêng biệt đối vói tài sản của tổ chức mình. Tổ chúc có quyền
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản theo quy định của pháp luật, theo điều
lệ và theo nghị quyết của cơ quan cao nhất trong tổ chức mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét