Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2014

Quá trình thay đổi pháp luật về quá trình sở hữu (P 2)

Giai đoạn 1959 - 1980

Sau khi kết thúc thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ, cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn mói. Miền Bấc tiến lén xây dựng chủ nghĩa xã hội, Miền Nam tiếp tục tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong điều kiện mới.

Ở miền Nam, dưới các chính thể ngụy quyền Si Gòn, pháp luật dân sự nối chung và pháp luật về sờ hữu nối riêng vẫn áp dụng hai bộ dân luật cũ tại Nam Kỳ và Trang Kỳ. Năm 1972 chính quyền Nguyễn Văn Thiệu có ban hành bô Dân luật, thực chất của bộ Dân luật năm 1972 cũng là việc rút tỉa những nguyên tắc đại cương cùa bộ Dân luật Pháp năm 1804. Quyền tư hữu tài sản trong bộ Dân luật năn 1972 cũng được coi là quyền tuyệt đối.

Ở miền Bắc cùng với việc ban hành hiến pháp mói (Híén pháp 1959), Nhà nước ta đã hoàn thành một cách căn bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đốì với các thành phẩn kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ then chốt trong giai đoạn này là: Xác lập và hoàn thiện chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Điều 12 Hiến pháp 1959 đã khẳng định: "Kinh tế quốc doanh thuộc sỏ hữu toàn dân, giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước bảo đảm phát triển ưu tiên.

Các hầm mỏ, sông ngòi và những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đến thuộc sỏ hữu toàn dân".

Trong giai đoạn này, bên cạnh hình thúc sở hữu Nhà nước còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác như; Sở hữu của các nhà tư sản dân tộc, của những người tiểu thương, thợ thủ công, hộ nông dân cá thể.v.v... Chính vì vậy Hiến pháp 1959 đã xác nhận và bảo hộ những hình thức số hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất là: Hình thúc sở hữu Nhà nước tức là của toàn dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sỏ hữu tập thể của nhân dân lao động, hình thúc sở hữu của người lao động riêng lẻ, và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc (Điều 11 Hiến pháp 1959).

Mục đích cơ bản của chính sách kinh tế của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là "phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội" (Điéu 9 Hiến pháp 1959). Để thực hiện chính sách lớn cùa Đảng và Nhà nước trong giai đoạn này là: Cải tạo xã hội chù nghĩa, thực hiện chủ trương xoá bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, tiến hành công hữu hóa tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, xoá bỏ hoàn toàn việc "người bóc lột người" thông qua các quan hệ tư hữu... Nhà nưóc ta đã ban hành một loạt các vắn bản pháp luật để thực hiện mục tiêu trên. Các văn bản đã được ban hành gồm:

Nghi định 19/CP ngày 29/6/1960 của Hội đồng Chính phủ về chính sách đối với việc cho thuê nhà của tư nhân ở các tỉnh, thành phố và thị xã; Nghị định 115/CP ngày 29/7/1964 quy định về điều lệ cho thuê nhà ở thành phố, thị xã; Quyết định số 188/CP về chính sách xoá bò triệt dể tàn tích chiếm hữu ruộng đất và các hình thức bốc lột thực dân, phong kiến ở Miền Nam Việt Nam; Nghị định 111/CP ngày 14/4/1977 về chính sách quản lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa.


Do bối cành lịch sử giai đoạn 1954 - 1975 đất nước bị phản chìa làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, nên pháp luật về sờ hữu ở Miền Bắc trong giai đoạn này có tinh chât 'mềm dẻo" trong một sô' mặt để thực hiện chính sách mặt trận, đoàn két dán tộc. Tính chưa triệt để trong pháp luật về sớ hũu thời kỳ này thể hiện: khi chúng ta thực hiện cái tạo xã hội chủ nghĩa thì trong một chừng mực nhất định Nhà nước vẫn bào hộ quyên sở hữu vé ruộng đất và các tư liệu sàn xuất khác cùa các hộ nông dân cá thể, người làm thợ thủ cống và nhũng người lao động riêng lẻ khác (Điều 14, 15 Hìẻn pháp 1959). Trong quá trình thực hiện chính sách này, Thủ tuớng Chính phủ cũng đã có Thông tư số 48/TTg ngày 3/6/1963 hướng dẫn về việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật bảo đàm quvền tư hữu về tư liệu sản xuất ở nông thôn. Nhà nước cũng đã ban hành Pháp lệnh ngày 21/10/1970 để trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.

Pháp luật về sờ hữu trong giai đoạn này chưa xác nhận việc công hữu hóa hoàn toàn đất đai (theo quy định của Hiến pháp 1959) nên quyền tư hữu cùa các hộ nông dân cá thể vẫn được Nhà nước bảo hộ cùng vói những quyền sở hữu tài sản khác. Tuv nhiên, Nhà nước nghiêm cấm việc lợi dụng tài sản tư hữu để làm rối loạn nền kinh tế của xã hội, phá hoại kế hoạch kinh tế Nhà nước.


Mặc dù còn có những hạn chế do hoàn cảnh lúc bấy giờ nhưng pháp luật vẻ sở hữu vân là mội công cụ pháp lý quan trọng và có hiệu quả để Nhà nước thực hiện các chủ trương xoá bổ tư hữu vé tư liệu sản xuất, thực hiện chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa và công hữu tư liệu nản xuất; thực hiện các Nghị quyết của Đại hội Đồng lần thứ ỈU, thứ IV là vừa xây dựng, vừa cải tạo, trong cấu tạó có xây dựng... Các vân bản pháp luật vé sở hữu trong giai đoạn này dã tạo ra tiền đề quan trọng có ý nghĩa to lớn trong thời kỷ tiếp theo.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét