Chủ
sở hữu thực hiện quyền định đoạt biểu hiện ở hai khía cạnh (góc độ):
- Định đoạt vẻ số phận thực tế của các
vật (tức là làm cho vật không còn trong thực tế nữa) như: tiêu dùng hết, huy bố,
hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với vật.
- Định đoạt về số phận pháp lý của vật
là việc làm chuyển giao quyền sở hữu đối vổi vật từ người này sang người khác.
Thông thường định đoạt về số phận pháp lý của vật phải thông qua các giao dịch
phù hợp vởi ỹ chí của chủ sỡ hữu như bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa
kế... thông qua việc định đoạt mà chủ sở hữu có thể tiêu dùng hết; chuyển quyền
chiếm hữu tạm thời (trong hợp đồng gửi giữ); quyển chiếm hữu và quyện sử dụng
tài sản trong một khoảng thời hạn (trong hợp đổng cho thuê, cho mượn) hoặc chủ
sở hữu chuyển giao quyển sở hữu tài sản cho người khác bằng hợp đổng bán, đổi,
cho...
Việc
một người thực hiện quyền định đoạt đối với vật sẽ làm chấm dứt hoặc thay đổi
các quan hệ pháp lụật liên quan đến vật đó.
Ví
dụ: Tiêu dùng hết tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản đó. Khi
bán một tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu của người đã bán nhưng lại làm
phát sinh quyền sở hữu về tài sản đó đến với người mua.
Ở
hai hình thức định đoạt trên chúng ta thấy rằng, trong việc định đoạt số phận
thực tế của vật, chủ sở hữu chỉ cẩn bằng hành vi của mình tác động trực tiếp đến
vật. Trong việc định đoạt vẻ số phận pháp lý chủ sở hữu phải thiết lập với chủ
thể khác một quan hệ pháp luật dân sự. Đối với hình thức định đoạt này BLDS đã
quy định: Người định đoạt tài sản phải là người có năng lực hành vi. Nghĩa là,
người đó phải có đầy đủ tư cách chủ thể. Trong những trường hợp tài sàn ít giá
trị (chủ yếu là động sản) việc thục hiện quyền định đoạt có thể bằng phương thức
giản đơn: thoả thuận miệng, chuyển giao ngay tài sản... nhưng trong những trường
hợp pháp luật cố quy định trình tự, thủ tục, thì phải tuân theo những quy định
đó (Điều 196 BLDS).
Để
tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu khi định đoạt tài sản, BLDS dã quy đinh
việc uỷ quyền định đoạt. Chủ sở hữu có thể uỷ quyền cho người khác định đoạt
tài sản, người được uỷ quyền phải thực hiện việc định đoạt theo phương pháp,
cách thức phù hợp với ý chí và lợi ích của chủ sờ hữu. Ngoài ra, vì lợi ích
chung của xã hội và để bảo đảm ổn định giao lưu dân sự trong những trường hợp
nhất định, Điều 199 BLDS còn quy định việc hạn chế quyền định đoạt tài sản cùa
chủ sở hữu. Đó là những trường hợp bị kê biên, hoặc tài sản đã được đem đi làm
vật bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ. Nếu các quan hệ đặt cọc, thế chặp chấm
dứt, quyết định kê biên tài sản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền không còn hiệu
lực, thì quyên đinh đoạt của chủ sở hữu m được khôi phục. Khi những tài sản đem
bán, đổi là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hóa thì Nhà nước có quyền ưu tiên
mua. Trong trường hợp tổ chức, cá nhân có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất
định theo quy định của pháp luật, thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền
ưu tiên mua cho tổ chức, cá nhân đó.
Trong
thực tế có nhũng trường hợp tuy không phải là chủ sở hữu, chủ sở hữu không uỷ
quyền, việc định đoạt có thể không theo ý chí của chủ sở hữu nhưng theo quy định
pháp luật những người đó vẫn có quyền.
Trong
nội dung của quyền sở hữu từng quyền có thể do người không phải là chủ sở hữu
thực hiện nhưng việc thực hiện đó chủ yếu không mang tính chất độc tập mà phụ
thuộc vào ý chí của chủ sở hữu. Chỉ có chù sở hữu quyền thực hiện một cách độc
lập không phụ thuộc vào người. Việc quy định quyền của ngườị không phải là chủ hưu
nhi lên tính năng động của quyền sở hữu luôn trong thế vận động trong những
trường hợp nhất định. Ché định quyền §ề hữu với ba quyền năng cơ bản không chỉ được
xây dựng trên nguyên tắc quyổn của chủ sở hữu chiếm vị trí trung tầm, lã xuất
phát điểm để quy định cức quy chế pháp lý tương ứng* mà còn cố cả những quy định
vớỉ những xuất phát đến từ góc độ tài sản,
Cả
ba quyền năng cụ thể tạo thành một thế thống nhất trong nội dung của quyền sở hữu,
chúng liên quan mật thiết với nhau nhưng mỗi quyển năng lại mang một ý nghĩa
khác nhau. Cụ thể là quyền chiếm hữu là một liên dế quan trọng cho hai quyền
kia nhưng quyền sử dụng lại cố ntột ý nghĩa thực tiễn thiết thực, thông qua quyển
năng này chù sở hữu mỡi khai thác được lợi íeh, công dụng cua Vật để thoả mãn
các nhu cầu cho mình, cồn quyển dịnỉi dogt lặi xác định ý nghĩa pháp lý quan trọng
nhất cốa chở sở hữu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét