Người đại diện thực hiện
hành vi nhân danh người được 1 đại diện. Bởi vậỵ, cần phải cớ một giới hạn nhất
định cho hành vi đó. Giới hạn này là phạm vi thẩm quyền đại diện.
Việc xác định phạm vi
thẩm quyền đại diện có ý nghĩa quan trọng: Người đại diện xác lập,-thực hiện
giao dịch dân sự trong phạm vi đó làm phát sinh quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm
của người được đại diện. Trường hợp không Cọ thẩm quyền đại diện hoặc vượt quá
phạm vi thẩm quyền đại diện, I thì về nguyên tắc người đại diện phải tự chịu
trách nhiệm (xem Điều 145, Điều 146 Bộ
luật dân sự về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có thẩm quyền đại điện
xấc lập, thực hiện hoặc do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá thẩm quyền
đại diện).
Phạm vi thẩm quyền đại
diện là giới hạn quyền, nghĩa vụ theo đó người đại diện nhân danh người được
đại diện xác I lập, thực hiộn giao dịch dân sự với người thứ ba.
Tuỳ thuộc vào quan hệ đại
diện là đại diện theo pháp luật hay đại diện thẽo uỷ quyền, phạm vi thần quyền
đại diện được xác định khác nhau (khoản 1,2 Điều 144 Bộ luật dân sự).
- Đại diện theo pháp luật:
Thẩm quyền đại diện của những người dại diện
theo pháp luật được pháp luật quy định hoặc thể hiện trong quyết định cử người
đại diện của cơ quan được nhà nước có thẩm quyền. Việc xác lập đại diện này thường không phụ thuộc vào ý chí của người được
đại diện. Người đại diện theo
pháp luật có thẩm quyền xác lập,Thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợí ích của
nguôi đuợc đại diện, trừ trường hợp pháp luât quy đính khác hoặc cơ quan nhà nước
có thẩm quyén có quyết định khác.
Trong trường hợp đại điện
cho người bị hạn chế năng lục hành vi dân sự cố một số nét đặc biệt riêng-
Chính người bị hạn chế năng lục hành ví dân sợ vẫn trục tiếp tham gia giao kết
hợp đổng, nhung vói sự chấp thuận của người đại diện. Người đại diện chỉ đống
vai trò giám sát, đổng ý hay khổng đổng ý cho xác lập giao dịch. Nếu giao địch
dó khổng làm ảnh hưởng đến lợi ích của chính người đại điện, cùa nhũng người
thân thích trong gia đinh của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người
đại diện cho phép người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiên
giao dịch.
- Đại diện theo uỷ quyển:
Phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo uỷ quyển được xác định trong chính
văn bản uỷ quyẻn. Người đại diện theo uỷ quyền chỉ được thục hiện hành vi pháp
lý trong khuôn khổ văn bản uỷ quyền quy đinh. Việc xác lập văn bản uỷ quyền và giải
quyết các tranh chấp phát sinh phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật vể
hợp đổng uỷ quyển.
Để bảo vệ lợi ích chính
đáng cho người thứ ba, là người xác lập giao dịch dân sự với người đại diện,
pháp luật quy định nghĩa vụ của người đại diện phải thông báo cho người thứ ba
biết về phạm vi thẩm quyền đại diện của mình (khoản 4 Điều 144 BLDS năm 2005).
Người đại diện cũng không dược thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc
với người thứ ba mà mình cũng là đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật
có quy đinh khác (khoản 5 Điều 144 BLDS năm 2005). Quy định này nhằm ngăn ngừa
và loại trừ những giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện có thể đem lại hậu
quả bất lợi cho người được đại diện.
Vậy việc phân biệt vượt quá thẩm quyền đại diện và không có thẩm quyền đại diện phải dựa trên những tiêu chí nào ạ?
Trả lờiXóa