Nhà
nước là chủ sở hữu đối với tài sản thuộc chế độ sở hữu toàn dân, Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện
quyền của chủ sở hữu đối với tài sản là những 1 tư liệu sản xuất chủ yếu có ý
nghĩa quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, đến an ninh, quốc
phòng như Ị quy định tại Điều 17 Hiến pháp năm 1992 và Điều 200 BLDS.
Khác
với những chủ sở hữu khác như: Công dân, pháp nhân, các đoàn thể, tổ chúc xã hội...
Nhà nước tham gia quan hệ quyền sờ hữu với cách là chủ thể đặc biệt và là chủ
thể duy nhất đôi vớỉ các tư liệu sản xuất chủ yếu (xem mục: Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự),
Nhà nước là một tổ chức đại diện cho nhân dân nắm và quản lý toàn bộ nhưng tài
sản thuộc sở hữu toàn dân, đồng thời nắm toàn bộ quyền lực chính trị. Nhà nước,
thông qua Quốc hội đề xuất và tự quy định cho mình những biện pháp, hình thức,
trình tự thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu
của đất nước (các Nghị định, Thông tư...) quy định về quyền hạn của mình trong
việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của toàn dân.
Nhà
nước thực hiện quyền sở hữu đối vói những tư liệu sản xuất chủ yếu như: Đất
đai, rừng núi, sông hồ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, thềm lục địa...
mà các chủ thể khác khổng có quyền sở hữu. Nhà nước giao tài sản cho các doanh
nghiệp nhà nước, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang quyền quản lý, sử dụng đúng
mục đích theo quy định của pháp luật. Khi tài sản được Nhà nước giao cho các cơ
quan, đơn vị, tổ chức... thì Nhà nước thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc
quản lý, sử dụng tài sản đó.
Để
thực hiện quyền sở hữu của mình, Nhà nước thành lập các cơ quan quyển lực, cơ
quan quản lý ở trung ương và địa phương, thành lập các doanh nghiệp nhà nước.
Nhà nước giao cho các cơ quan tổ chức, doanh nghiệp của Nhà nước những tài sản
phù hợp với yêu cầu, chức nầng của đơn vị đó để thực hiện những nhiệm vụ nhất định.
Các đơn vị hoặc cá nhân được Nhà nước giao tài sản phải sử dụng, khai thác đúng
mục đích, có hiệu quả, phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước theo
quy định của pháp luật. Đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước nhưng chưa được
giao cho tổ chức hoặc cá nhân quản lý như: Đất hoang, đồi trọc, thêm lục địa xa
bờ, vùng kinh tế đặc quyền... thì Chính phủ tổ chức thực hiện việc bảo vệ, điều
tra khảo sát và lập quy hoạch tổng thể để dần đưa vào khai thác.
Ngoài
ra, trong phạm vi pháp luật cho phép, các cơ quan tổ chức doanh nghiệp nhà nước
được thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các loại tài sản được
giao. Đối với các doanh nghiệp nhà nước khi định đoạt tài sản là những thiết bị,
nhà xưởng quan trọng theo quy định của Chính phủ, phải được cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền cho phép trên nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn. Các cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp này không phải là chủ sở hữu đối với các loại tài sản
đó mà chủ sở hữu là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo
yêu cầu của chức năng và nhiệm vụ, Nhà nước con thành lập các cơ quan của Nhà
nước để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của Nhà nước trong việc quản lý và điều
hành xã hội. Khi thấy không cần thiết, Nhà nước có thể sáp nhập, chia, tách, giải
thể một số trong các cơ quan đó. Việc thu hổi, thanh lý, chuyển giao các loại
tài sản của cờ quan bị giải thể, chia tách hoặc sáp nhập do Nhà nước quy định.
Đối vói các doanh nghiệp của Nhà nước, nếu sản xuất, kinh doanh không có hiệu
quả, thua lỗ nhiều... thì Nhà nước có thể tổ chức lại, giải thể, tuyên bố phá sản
hay chuyển hình thức sở hữu của các doanh nghiệp đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét