a.
Hoạt động của tổ hợp tác
Tổ hợp tác hoạt động
thông qua đại diên của tổ. Đại diện của tổ là tổ trưởng do các tổ viên bầu ra.
BLDS không quy định hoạt động bên trong của tổ hợp tác như cách thức bầu đại diện,
thành phần tổ viên tham dự họp và số phiếu cần thiết... Nhưng theo tinh thần
chung về tổ chức, các nguyên tắc chung của BLDS thì tổ trưởng phải do phiên họp
của tất cả các tổ viên và phải được các tổ viên đồng ý, tổ trưởng đầu tiên có thể
ghi ngay vào hợp đồng hợp tác. Việc thay đổi tổ trưởng cũng có thể diễn ra
trong quá trình hoạt động của tổ hợp tác dưới hình thức bầu lại tổ trưỏng.
Tổ trưởng có thể uỷ quyền
cho tổ viên thực hiện một số công việc nhất định cần thiết cho tổ. Việc uỷ quyền
cho tổ viên phải tuân thù các quy định chung về uỷ quyền được ghi nhận tại
chương V - Phần thứ nhất BLDS về nội dung cũng như hình thức uỷ quyền.
Người đại diện tổ hợp
tác, nhân danh tổ xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phù hợp với mục đích
hoại dộng của tổ, trong phạm vi những công việc đã được ghi nhận trong hợp đồng
hợp tác làm phát sinh quyền về nghĩa vụ của cả tổ. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 114
BLDS CÒI1 quy định thêm: " Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất cúa
tổ hợp tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý,
Quy định này có thể được
hiểu theo hai nghĩa sau: * Thứ nhất: Mỗi một giao dịch định đoạt tài sản mà người
dại diện xác lập hay thực hiện đều phải có sự đồng ý của toàn thổ hay đa số tổ
viên. Việc đổng ý phải được thể hiện trước hoặc sau khi giao dịch đó đã xác lập.
I Thứ hai: Người dại diện của tổ được mặc nhiên suy đoán là đã được các tổ viên
đồng ý khi xác lập, thực hiện các giao dịch "vì mục đích hoạt động của tổ".
Xét theo ngữ pháp thì
khoản 3 Điều 114 BLDS năm 2005 thể hiện cách hiểu thứ nhất. Nếu như vậy thì khó
có thổ tưởng tượng được việc hoạt động bình thường của tổ hợp tác trong điều kiện
kinh tế thị trường, bởi việc quyết dinh của tổ trưởng không phải lúc nào cũng
có thể được sự đóng ý của toàn thể hay đa số các tổ viên và việc đổng ý này bôn
dối tác khó có thể biết được. Nếu một giao dịch mang lợi ích cho tổ mà các tổ
viên không chấp nhận sẽ dẫn đến giao dịch mà người đại diện xác lập, thực hiện
bị coi là vô hiệu.
Theo các quy tắc chung
về chủ thể, cũng như vé đại diện theo pháp luật, thì tổ trưởng là người đại diện
cho tó (khoản 6 Điều 141; khoản 1 Điều 144 BLDS) họ có quyền thực hiện các giao
dịch mà khồng cần sự đồng ý của đa số các thành viên, miễn là những giao dịch
đó phù hợp với công việc của tổ và vì lợi ích của tổ. Những giao dịch đó làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của cả tổ.
Tuy nhiên, việc định đoạt
tài sản của tổ hợp tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý (nếu là tư liệu sản xuất)
và đa số đổng ý (nếu là các tài sản khác). Đối với các loại giao dịch làm giảm
tài sản của tổ thì người đại diện phải tuân thủ các quy định trên nhằm tránh sự
lạm quyền của tổ trưởng trong việc thực hiện vai trò của mình. Pháp luật không
chỉ rõ quy định "đa số' gì? Đa số thường hay đa số tuyệt đối? Nhưng theo
các nguyên tắc chung thì chỉ cần đa số thường (50% + 1) và việc đồng ý phải được
xác định trước khi người đại diện thực hiện việc định đoạt đó.
b.
Trách nhiệm của tổ hợp tác
Với tư cách là chủ thể
của quan hệ dân sự, tổ hợp tác cố các quyền và nghĩa vụ dân sự đồng thời phải
chịu trách nhiệm do khổng thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ. Hành vi của
người đại diện tạo ra các quyền và nghĩa vụ cho tổ hợp tác, thì cũng có thể tạo
ra nghĩa vụ cho tổ hợp tác nếu các hành vi đó thực hiện nhân danh tổ hợp tác.
Tổ hợp tác chịu trách
nhiệm bằng tài sản chung của tổ. Nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa
vụ chung, thì tổ viên phải chịu trách nhiệm liên đới theo phần tương úng với phần
đã đóng góp bằng tài sản riêng của họ. Như vậy, trách nhiệm tài sản của tổ hợp
tác là trách nhiệm vồ hạn. Việc thực hiện nghĩa vụ của những tổ viên phải tuân
thủ cách thức thực hiện nghĩa vụ liên đói được quy định tại Điểu 298 BLDS. Sự
liên đới có phân chia thành phần tương ứng với phần vốn mà tổ viôn đã đóng góp
vào tồi sản chung của tổ nhưng sự phân chìa này khổng lồm mất tính liên đổi của
nghĩa vụ. Trong trường hợp một tố viên không thực hiện nghĩa vụ, người có quyền
có thể yêu cầu các tố viên khác phải thực hiện. Nếu một tổ viên đã thực hiện
toàn bộ nghĩa vụ, họ chỉ cố quyền yêu cầu các tổ viên khác thực hiện nghĩa Vụ
theo phần đôi với họ.
Tài sản của tổ hợp tác
được hình thành từ việc đống góp của các tổ viên (mức đóng góp, cách thức đóng
góp được ghi nhận trong hợp đổng hợp tác), tài sản được tặng, cho chung. Ngoài
ra các tổ viên có thể thoả thuận trích một phần hoa lợi, lợi tức của tổ làm tài
sản chung. Việc quản lý, sử dụng tài sản chung cùa tổ do các tổ viên thoả thuận
trong hợp đồng hợp tác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét