Sở
hữu chung theo phần
Khoản 1 Điều 216 BLDS
quy định: "Sỏ hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở
hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung”. Trong sở hữu chung
theo phần, mỗi đồng chủ sở hữu biết trước được tỷ lệ phần quyền của mình đối với
khối tài sản chung. Phần quyền đó có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau.
Phần quyền được xác định
trước này là đối với toàn bộ tài sản thuộc sở hữu chung của tất cả các đồng chủ
sở hữu. Do vậy, phần tài sản của các đồng chủ sở hữu trong sở hữu chung theo phần
bao giờ cũng phải được biểu hiện bằng những đơn vị số học cụ thể. Thông qua đơn
vị sô' học đố mà thấy được phần quyền của mỗi đồng chủ sở hữu là bao nhiều
trong khối tài sản chung. Ví dụ: 1/2; 1/3; 1/4 tổng sô' tài sản. Cùng với việc
xác định tỷ lệ phần quyền, thì việc xác định nghĩa vụ của mỗi một đồng chủ sở hữu
đối với tài sản chung cũng theo nguyên tắc: Nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sò hữu
chung tương ứng với phần quyền của chủ sở hữu chung dó (nếu các đồng chủ sở hữu
chung không có thoả thuận khác).
Trong sở hữu chung theo
phần, quyền lợi của các đồng chủ sở hữu có liên quan mật thiết với nhau khi họ
thực hiộn các quyền nãng của chủ sở hữu. Vì vậy, khi thực hiện quyền chiếm hữu,
sử dụng tài sản thuộc sở hữu chung theo phần phải được tiến hành trên cơ sở thoả
thuận và nhất trí giữa các đồng chủ sở hữu. Điều 221 BLDS đã quy định:
"Các chủ sở hữu
chung cùng quản lý tài sản chung theo nguyên tắc nhất trí, trừ trường hợp có
thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác".
Điều này thể hiện ở việc
các đồng chủ sở hữu phải cùng nhau bàn bạc để thống nhất về cách bảo quản, sử dụng
tài sản trên cơ sở của nguyên tắc tự do, tự nguyên cam kết, thoả thuận. Mọi thoả
thuận hợp pháp của các đồng chủ sở hữu đều có hiệu lực bắt buộc và cũng là cơ sở
pháp lý để giải quyết khi có tranh chấp tiền của mỗi
người có thể không bằng nhau nhưng tài sản trong sở hữu chung theo phần là một
thể thống nhất, có mối liên hệ, liên kết chặt chẽ với nhau. Quyền của mỗi một
người là bao trùm đối với toàn bộ tài sản nên họ phải được quyền ngang nhau
trong việc chiếm hữu và sử dụng tài sản chung.
Ví dụ: Gia súc để cày,
kéo được mua chung, thì mỗi người khi sừ dụng phải sù dụng cả gia súc đó mới
khai thác được công dụng.
Khi tài sản thuộc sở hữu
chung được sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh mà sinh lợi, thì số lợi đó
sẽ được chia cho các đồng chủ sờ hữu theo tỷ lệ phần quyền tương ứng của mỗi
người. Khoản 1 Điều 222 BLDS xác định: "Mỗi chủ sở hữu chung theo phẩn có
quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung tương ứng với
phần quyền sở hữu của mình...". Tương tự như vậy khi phải chi phí để duy
trì, củng cố tài sản chung thì mỗi đồng chủ sỏ hữu cũng phải chịu một phần chi
phí theo tỷ lệ phần quyền của người đó.
Việc định đoạt tài sản
chung của mỗi một đồng chủ sở hữu là việc định đoạt phẩn quyền của họ trong khối
tài sản chung. Mỗi một đồng chủ sở hữu có toàn quyền trong việc định đoạt phần
quyền của mình đối với tài sản thuộc sò hữu chung mà không một ai có quyền ngăn
cạn. Việc chuyển phần quyền của một đồng chủ sở hữu thông qua việc mua, bán,
cho, đổi, thừa kế... cho một người khác hoàn toàn không phải là việc trao cho
người khác đủ một phần cụ thể của tài sản. Nói cách khác, việc định đoạt đó làm
chấm dứt phần quyền của người đó nhưng lại làm xuất hiện quyền sở hữu của một
người khác đối với toàn bộ tài sản là một khách thể thống nhất trong sở hữu
chung theo phần (khi một đồng chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiện mua theo
quy đinh tại Điều 223 BLDS).
Sở hữu chung theo phần
là hình thức cộng hợp phần tài sản cùa các đồng chủ sở hữu để cùng sản xuất, sử
dụng, góp phần khai thác, tận dụng được mức tối đa giá trì sừ dụng tài sản. Sỏ
hữu chung theo phần là cơ sờ pháp lý để về chủ sở hữu liên doanh, liên kết,
chung vốn mua sắn các tài sản hoặc xây dụng các công trình mà nếu một chủ thể
riêng biệt thì không đủ khả năng để thực hiện.
Do có tính chất đặc thừ
nên sở hữu chung theo phán được xuất hiện khi cố một trong những điều kiện:
- Do nhiều người cùng chung công sức để
tạo ra một tài sản;
- Do gốp tiền để mua sắm tài sản hoặc để
xây dựng chung một công trình;
- Do cùng được tặng cho hoặc cùng được
thừa kế chung một tài sản.
Sở hữu chung là một
quan hệ pháp luật dân sự vé sò hữu nên nó cũng chẩm dứt khi có những sự kiện
pháp lý quy định tại Điều 226 BLDS. Việc chia tài sản thuộc sè hữu chung được
thực hiện theo quy định của Điều 224 BLDS.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét