
Như vậy: Khi hai hoặc
nhiều người cùng có chung một tài sản, thì những người đó được gọi là đồng sở hữu.
Các công dân vói nhau, các hợp tác xã với nhau, hoặc công dân với hợp tác xã...
đều có thể trở thành đồng chủ sở hữu đối với tài sản chung. Các đồng chủ sò hữu
trong sở hữu chung có quyền chung nhau cùng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài
sản chung.
Sở hữu chung trong pháp
luật dân sự có đặc điểm là:
* Khách thể của sở hữu
chung là thống nhất: Một tài sản hoặc một tập hợp tài sản. Tài sản này nếu đem
chia tách vẻ mặt vật lý, tức là chia ra các phần khác nhau... thì sẽ không còn
giá trị sử dụng như ban đầu; các chủ sở hữu sẽ không khai thác được công dụng vốn
có của nó. Ví dụ: Một xe ô tô thuộc sở hữu chung của các đổng sở hữu. Nếu đem
chia tách ra thành các phần nhỏ thì trở thành phụ tùng mà không còn công dụng để
chở hàng hoá hoặc chuyên chở hành khách.
Ngoài ra, trong thực tế
còn có trường hợp do tập quán hoặc do kết cấu xây dựng, tính chất, công dụng mà
khách thể chỉ có thể là tài sản chung. Điều này còn tuỳ thuộc vào sự thoả thuận
hoặc thối quen của tập quán.
*Về chủ thể: Mỗi đổng
chủ sở hữu chung khí thục hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối
với tài sản chung sẽ liên quan đến quyền lợi của tất cả các đổng chủ sở hữu
khác. Tuy nhiên, mỗi một đổng chủ sở hữu trong sớ hữu chung cố vị trí độc lập
và tham gia quan hệ pháp luật dân sự với tư cách là một chủ sở hữu độc lập.
Tính chất cùng ”chung nhau sở hữu" đối với tài sản chung hoàn toàn khác
tính chất chung trong sở hữu nhà nước, sở hữu của các tổ chức chính trị - xã hội
- nghê nghiệp, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp.
Trong sở hữu tập thể,
tài sản là của chung tất cả xâ viên chung nhưng các thành viên của tập thể đố
khổng cố tu cách là chủ sở hữu. Quyển của các thành viên trong tổ chức, tập thể
đó hoàn toàn khác quyén của đổng chủ sở hữu trong sở hữu chung. Sở hữu đối vói
tài sản của các tổ chức, các tập thể I là sở hữu của cả tổ chức, tập thể đố nhằm
thực hiện mục đích I s ^ chung của các thành viên đã được quy định trong điểu lệ
111 BLDS
* Việc thực hiện các quyén năng chiếm hữu,
sử dụng, dịnh đoạt đối vói tài sản chung của các đổng chủ sở hữu cũng có những
đặc điểm riêng. Tuy rằng, địa vị của mỗi một dổng chủ sở hữu có tính chất độc lập
nhưng các quyển năng của mỗi một chủ sở hữu lại thống nhất đối với toàn bộ khối
tài sản chung mà không phải chỉ riêng với phán giá trị tài sản mà họ có. Nếu
quyền năng của mỏi một đổng chù sở hữu mà tách ra theo phạm vi phần giá trị tài
sản mà họ có, thì các đồng chủ sở hữu không thể sử dụng được tài sản và do vậy
sở hữu chung ấy sẽ không có ý nghĩa. Từ đặc điểm này nên việc sử dụng, định đoạt
tài sản phải được các đồng chủ sở hữu thoả thuận dựa trên tính chất, cổng dụng
của tài sản và dựa vào hoàn cảnh cụ thể của các đồng chủ sở hữu chung.
Đối với việc sử dụng
tài sản (Điều 222). Các đổng chủ sở hữu có thể thoả thuận và lựa chọn một trong
những hình thức: Cùng sử dụng để khai thác cổng dụng của tài sản; thay phiên
nhau sử dụng (nếu tài sản chung không thể phân chia thành nhiều phần để sử dụng.
Ví dụ trâu, bò mua chung dể khai thác sức kéo thường được thay phiên nhau sử dụng
theo thoả thuận); hoặc nếu tài sản gốm nhiẻu vật khác nhau, các chủ sở hữu có
thể thay phiên nhau sử dụng từng vật, tức là mỏi người sử dụng một phẩn tài sản
mà vẫn bảo đảm được nhu cầu sử dụng. Trường hợp các chủ sở hữu mua chung tài sản
dể cho thuê, thì căn cứ vào phần quyển tài sản của mỗi chủ sở hữu để xác định
quyền lợi và trách nhiệm của mỏi người.
Đối với việc định đoạt
tài sản ( Điẻu 223). vể nguyên tắc mỗi đồng chủ sở hữu chung là một chủ thể độc
lập nên có những quyền nhất định. Chủ sở hữu chung theo phần cố quyền định đoạt
phần quyển sở hữu của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Việc
định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận củà các chủ sỏ
hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp một chủ sở hữu
chung bán phán quyén sở hữu |gpa minh thì các chủ sở hữu chung khác được quyền
ưu tiên mua. Sau một thời hạn 3 tháng đối vói tài sản chung là bất động sản, 1
tháng đối với tài sản chung là động sản mà không có chủ sở hữu chung nào mua
thì chủ sở hữu đó được quyền bán phần quyền sở hữu chung của mình cho người
khác( khoản 3 Điểu 223 BLDS). Nếu một chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình hoặc
chủ sở hữu chết mà không có người thừa kế thì phần quyền tài sản đó sẽ thuộc
quyền sở hữu của Nhà nước. Trường hợp này không áp dụng Điều 236 BLDS- Xác lập
quyên sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở hữu. Trường hợp
trên, vật đang có chủ sớ hữu nhưng chủ sở hữu không muốn sở hữu nữa vì vậy sẽ
có nhiều chủ thể muốn được sở hữu, cho nên sẽ xẩy ra tranh chấp giữa người biết
được chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu và những người đồng sở hữu. Theo Điều 236
thì người phát hiện sản đó không ai chiếm giữ, do vậy nếu vật là động sản thuộc
quyền sở hữu của người phát hiện được, nếu là bật động sản thuộc quyền sở hữu
nhà nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét