Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2014

Sở hữu chung

Quyền sở hữu là quyền chi phối tài sản của một chủ thể nhất định. Quyền của chủ sở hữu đối vói tài sản gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình theo quy định của pháp luật. Trong thực tế có những trường hợp một tài sản nhưng lại thuộc quyền sở hữu của hai hay nhiều người, nói cách khác đó là trường hợp hai hay nhiều người có chung một tài sản. Pháp luật dân sự gọi đó là sở hữu chung. Điều 214 BLDS quy định: -."Sỏ hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản... Tài sản thuộc hình thức sở hữu chung là tài sản chung".

Như vậy: Khi hai hoặc nhiều người cùng có chung một tài sản, thì những người đó được gọi là đồng sở hữu. Các công dân vói nhau, các hợp tác xã với nhau, hoặc công dân với hợp tác xã... đều có thể trở thành đồng chủ sở hữu đối với tài sản chung. Các đồng chủ sò hữu trong sở hữu chung có quyền chung nhau cùng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung.

Sở hữu chung trong pháp luật dân sự có đặc điểm là:

* Khách thể của sở hữu chung là thống nhất: Một tài sản hoặc một tập hợp tài sản. Tài sản này nếu đem chia tách vẻ mặt vật lý, tức là chia ra các phần khác nhau... thì sẽ không còn giá trị sử dụng như ban đầu; các chủ sở hữu sẽ không khai thác được công dụng vốn có của nó. Ví dụ: Một xe ô tô thuộc sở hữu chung của các đổng sở hữu. Nếu đem chia tách ra thành các phần nhỏ thì trở thành phụ tùng mà không còn công dụng để chở hàng hoá hoặc chuyên chở hành khách.

Ngoài ra, trong thực tế còn có trường hợp do tập quán hoặc do kết cấu xây dựng, tính chất, công dụng mà khách thể chỉ có thể là tài sản chung. Điều này còn tuỳ thuộc vào sự thoả thuận hoặc thối quen của tập quán.

*Về chủ thể: Mỗi đổng chủ sở hữu chung khí thục hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản chung sẽ liên quan đến quyền lợi của tất cả các đổng chủ sở hữu khác. Tuy nhiên, mỗi một đổng chủ sở hữu trong sớ hữu chung cố vị trí độc lập và tham gia quan hệ pháp luật dân sự với tư cách là một chủ sở hữu độc lập. Tính chất cùng ”chung nhau sở hữu" đối với tài sản chung hoàn toàn khác tính chất chung trong sở hữu nhà nước, sở hữu của các tổ chức chính trị - xã hội - nghê nghiệp, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp.

Trong sở hữu tập thể, tài sản là của chung tất cả xâ viên chung nhưng các thành viên của tập thể đố khổng cố tu cách là chủ sở hữu. Quyển của các thành viên trong tổ chức, tập thể đó hoàn toàn khác quyén của đổng chủ sở hữu trong sở hữu chung. Sở hữu đối vói tài sản của các tổ chức, các tập thể I là sở hữu của cả tổ chức, tập thể đố nhằm thực hiện mục đích I s ^ chung của các thành viên đã được quy định trong điểu lệ 111 BLDS

*          Việc thực hiện các quyén năng chiếm hữu, sử dụng, dịnh đoạt đối vói tài sản chung của các đổng chủ sở hữu cũng có những đặc điểm riêng. Tuy rằng, địa vị của mỗi một dổng chủ sở hữu có tính chất độc lập nhưng các quyển năng của mỗi một chủ sở hữu lại thống nhất đối với toàn bộ khối tài sản chung mà không phải chỉ riêng với phán giá trị tài sản mà họ có. Nếu quyền năng của mỏi một đổng chù sở hữu mà tách ra theo phạm vi phần giá trị tài sản mà họ có, thì các đồng chủ sở hữu không thể sử dụng được tài sản và do vậy sở hữu chung ấy sẽ không có ý nghĩa. Từ đặc điểm này nên việc sử dụng, định đoạt tài sản phải được các đồng chủ sở hữu thoả thuận dựa trên tính chất, cổng dụng của tài sản và dựa vào hoàn cảnh cụ thể của các đồng chủ sở hữu chung.

Đối với việc sử dụng tài sản (Điều 222). Các đổng chủ sở hữu có thể thoả thuận và lựa chọn một trong những hình thức: Cùng sử dụng để khai thác cổng dụng của tài sản; thay phiên nhau sử dụng (nếu tài sản chung không thể phân chia thành nhiều phần để sử dụng. Ví dụ trâu, bò mua chung dể khai thác sức kéo thường được thay phiên nhau sử dụng theo thoả thuận); hoặc nếu tài sản gốm nhiẻu vật khác nhau, các chủ sở hữu có thể thay phiên nhau sử dụng từng vật, tức là mỏi người sử dụng một phẩn tài sản mà vẫn bảo đảm được nhu cầu sử dụng. Trường hợp các chủ sở hữu mua chung tài sản dể cho thuê, thì căn cứ vào phần quyển tài sản của mỗi chủ sở hữu để xác định quyền lợi và trách nhiệm của mỏi người.


Đối với việc định đoạt tài sản ( Điẻu 223). vể nguyên tắc mỗi đồng chủ sở hữu chung là một chủ thể độc lập nên có những quyền nhất định. Chủ sở hữu chung theo phần cố quyền định đoạt phần quyển sở hữu của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận củà các chủ sỏ hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp một chủ sở hữu chung bán phán quyén sở hữu |gpa minh thì các chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. Sau một thời hạn 3 tháng đối vói tài sản chung là bất động sản, 1 tháng đối với tài sản chung là động sản mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán phần quyền sở hữu chung của mình cho người khác( khoản 3 Điểu 223 BLDS). Nếu một chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình hoặc chủ sở hữu chết mà không có người thừa kế thì phần quyền tài sản đó sẽ thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Trường hợp này không áp dụng Điều 236 BLDS- Xác lập quyên sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở hữu. Trường hợp trên, vật đang có chủ sớ hữu nhưng chủ sở hữu không muốn sở hữu nữa vì vậy sẽ có nhiều chủ thể muốn được sở hữu, cho nên sẽ xẩy ra tranh chấp giữa người biết được chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu và những người đồng sở hữu. Theo Điều 236 thì người phát hiện sản đó không ai chiếm giữ, do vậy nếu vật là động sản thuộc quyền sở hữu của người phát hiện được, nếu là bật động sản thuộc quyền sở hữu nhà nước.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét