Thứ Hai, 22 tháng 9, 2014

Các nguyên tắc chung trong luật thừa kế (P1)

Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của cõng dân được Nhà nước bảo hộ. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định điều đó và trong Chương I Phần thứ tư của BLDS đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản về thừa kế như sau:

1.         Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của cá nhân

Quyền thừa kế của công dân là một quyền hiến định, BLDS nam 2005 cụ thể hoá quyền này của công dân tại Phần thứ tư. Ngay điều đầu tiên trong phần thừa kế (Điều 631 BLDS) đã đưa ra nguyên tắc chung nhất, đó là "Quyền thừa kế của cá nhân'. Nguyên tắc này được thể hiện cụ thể như sau: Pháp luật bảo đảm quyền định đoạt của cá nhân đối với tài sản sau khi cá nhân đó chết thông qua việc lập di chúc, nếu không lập di chúc để định đoạt tài sản của mình thì việc thùa kế được giải quyết theo pháp luật. Người thừa kế (theo di chúc hoặc theo pháp luật) được pháp luật bảo đảm cho việc hưởng di sản của người chết để lại. Thừa kế được thực hiện theo hai phương thức khác nhau: Thứ nhất, theo sự định đoạt theo ý nguyện cuối cùng của người để lại thừa kế theo di chúc; thứ hai là theo quy định của pháp luật.


Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu cùa công dân về thu nhập hợp pháp, cùa cài để dành, tư liệu sinh hoạt; tư liệu sản xuất như  kho xưởng, nguyên vật liệu; vốn bằng tiền, vàng, ngoại tệ với số lượng không hạn chế, cổ phiếu... Do đó, tất cả thuộc quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân sẽ trớ thành dí sán thừa kệ khi người đó chết.

Đọc thêm: http://www.luatdansuvietnam.com/2014/09/oi-tuong-va-phuong-phap-ieu-chinh-cua.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét