Quyền thừa kế là một
trong những quyền cơ bản của cõng dân được Nhà nước bảo hộ. Điều 58 Hiến pháp
năm 1992 đã khẳng định điều đó và trong Chương I Phần thứ tư của BLDS đã đưa ra
những nguyên tắc cơ bản về thừa kế như sau:
1. Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản
của cá nhân
Quyền thừa kế của công
dân là một quyền hiến định, BLDS nam 2005 cụ thể hoá quyền này của công dân tại
Phần thứ tư. Ngay điều đầu tiên trong phần thừa kế (Điều 631 BLDS) đã đưa ra
nguyên tắc chung nhất, đó là "Quyền thừa kế của cá nhân'. Nguyên tắc này
được thể hiện cụ thể như sau: Pháp luật bảo đảm quyền định đoạt của cá nhân đối
với tài sản sau khi cá nhân đó chết thông qua việc lập di chúc, nếu không lập
di chúc để định đoạt tài sản của mình thì việc thùa kế được giải quyết theo
pháp luật. Người thừa kế (theo di chúc hoặc theo pháp luật) được pháp luật bảo
đảm cho việc hưởng di sản của người chết để lại. Thừa kế được thực hiện theo
hai phương thức khác nhau: Thứ nhất, theo sự định đoạt theo ý nguyện cuối cùng
của người để lại thừa kế theo di chúc; thứ hai là theo quy định của pháp luật.
Nhà nước bảo hộ quyền
sở hữu cùa công dân về thu nhập hợp pháp, cùa cài để dành, tư liệu sinh hoạt;
tư liệu sản xuất như kho xưởng, nguyên vật
liệu; vốn bằng tiền, vàng, ngoại tệ với số lượng không hạn chế, cổ phiếu... Do
đó, tất cả thuộc quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân sẽ trớ thành dí sán thừa kệ
khi người đó chết.
Đọc thêm: http://www.luatdansuvietnam.com/2014/09/oi-tuong-va-phuong-phap-ieu-chinh-cua.html
Đọc thêm: http://www.luatdansuvietnam.com/2014/09/oi-tuong-va-phuong-phap-ieu-chinh-cua.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét