Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2014

Khái niệm sở hữu nhà nước

Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định:

"Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhủ nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cá quy én lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức".

Theo quy định của Hiến pháp, Nhà nước là người đại diện cho toàn dân, được nhân dân trao cho những quyền lực chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, ngoại giao... để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả là: xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước đại diện cho nhân dân nắm toàn bộ các tư liệu sản xuất chủ yếu trong tay để thực hiện sứ mệnh lịch sử cao cả của mình. Kế tục Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp 1992 đã tiếp tục khẳng định tại Điều 17: "Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời... cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước...".

Tuyên bô' ngày 12/5/1977 của Chính phủ Việt Nam vé vùng biển cũng có ghi: "Nước Cộng hoà xã hội chù nghĩa Việt Nam có chủ quyên hoàn toàn về thăm dò, khai thác, bảo vệ

Như vậy, toàn bộ những tư liệu sản xuất chủ yếu như đất đai, tài nguyên trên mặt biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc thềm lục địa Việt Nam.,. cùng với những tài sản khác theo quy định của pháp luật đều thuộc quyền quản lý, khai thác và sừ dụng cùa Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người dại diện cho nhân dân quàn lý, nắm giữ những tư liệu sản xuất. là chù sở hừu đối với tài sản được quy định tại Điều 200 BLDS và Nhà nước thực hiện quyền chiếm hữu sử dụng và định đoạt đối với các tài sản đó. Điều 201 BLDS quy định:

"l. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền của hữu đối với tài sản thuộc sỏ hữu nhà nước.

2. Chinh phủ thống nhất quản lý và bảo đảm sử dụng dồng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm tài sản thuộc sỏ hữu nhà nước".

Trước đây, hiểu sở hữu toàn dân quy định tại Điều 17 Hiến pháp 1992 như là một phạm trù kinh tế, thì ngày nay sở hữu toàn dân còn được hiểu là một phạm trù pháp lý, do vậy tài sản của toàn dân phải có chủ sở hữu đích thực để thực hiện quyền sở hữu trong việc phát triển sản xuất, phát triển kinh tế- xã hội, bảo vộ an ninh quốc phòng của đất nước.

Để sử dụng tài sản của nhân dân có hiệu quả cần phải trao quyền cho Nhà nước, cho người có thẩm quyền định đoạt tài sản của nhân dân theo quy định cúa pháp luật do vậy trong BLDS năm 2005, Điều 200 quy định Nhà turứv là chù sở hữu đối với tài sản của chế độ sở hữu toàn dân.

Quyền sở hữu nhà nước, hiểu theo nghĩa khách quan (hay theo nghĩa rộng), là tổng hợp các quy phạm pháp luật!

-           Xác nhận việc chiếm hữu cùa Nhà nước (gồm cấ chiếm hữu pháp lý và chiếm hữu thực tể) đối với những tư liệu Nồtt xuất chủ yếu, quan trọng nhất;

-           Quy định vê nội dung và trình tự thực hiện các quyến năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản của Nhà nước;

-           Xác định phạm vi, quyền hạn của các cơ quan nhà nước các doanh nghiệp do Nhà nước thành lập trong việc quản lý nghiệp vụ những tài sản do Nhà nước giao theo quy định của pháp luật để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kỉnh doanh, quản lý hoặc hoạt động công ích.
Nhà nước giao cho các doanh nghiệp nhầ nước vởn, tư liệu sản xuất để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh doanh hoặc hoạt động công ích do Nhà nước giao, Cấc doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, cổ cấc quyền vằ nghĩa vụ dân sự. Có quyền quản lý, sử dụng vốn, đất đal, tằỉ nguyên và các nguồn lực khác. Cố quyền chuyển nhượng cho thuê, thế chấp, cẩm cố tài sản được quyền quán lý, trừ nhưng thiết bị, nhà xưởng quan trọng theo quy định cửa Chinh phô phải được cơ quan quản lý nhà nước cổ thẩm quyền cho phép trên nguyên tắc bảo toàn và phát triển.Như vậy, Nhà nước giao tài sản cho các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời cho phép doanh nghiệp được thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản đó trong một phạm vị theo quy định của pháp luật. Quyền chiếm hữu, sở dụng, định đoạt của các cơ quan, doanh nghiệp của Nhà nước được gọi là “quyền sở hữu hạn chế”. Nhà nước thực hiện các quyềp năng của chủ sở hữu theo quy định tại Điều 204 BLDS),


Theo nghĩa chủ quan (hay nghĩa hẹp) quyền sở hữu toàn dân được hiểu là- toàn bộ những hành vi mà với tư cách đại diện cho chủ sở hữu, Nhà nước cũng như các chủ sở hữu khác thực hiện các quyền năng cụ thể về chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối vói các tài sản của mình. Nhà nước "là chủ" đối vói các tư liêu sản xuất chủ yếu nhưng không ai quy đinh I cho Nhà nước phạm vi từng quyền hạn đối với những tư liệu I sản xuất đó. Nhà nước tự quy định cho mình các quyền nâng và các trình tự để thực hiện các quyền năng. Nhưng điều đó không có nghĩa là quyền hạn của Nhà nước là vô tận đốí vớí các tài sản mà Nhà nước là chủ sở hữu. Cũng như các chủ thể khác, Nhà nước chỉ được thực hiện quyền của chủ sỡ hữu 'trong phạm vi pháp luật cho phép. Nói cách khác, các quyến năng đó cũng được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét