b. Chiêm hữu không có căn cứ pháp
luật
Là
việc chiếm hữu của một người đối với một tài sản mà không dựa trên những cơ sở
của pháp luật. Cụ thể là những trường hợp mà người chiếm hữu một tài sản nhưng
không phải là chủ sở hữu hoặc không chiếm hữu theo những căn cứ do BLDS đã quy
định cụ thể tại các điều luật nêu trên.
Trong
việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật thường xảy ra hai khả năng sau đây:
- Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật
ngay tình: Là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật theo quy định tại Điều
189 BLDS nhung không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không
có căn cứ pháp luật. Tức là, luật không buộc người đó phải biết tính bất hợp
pháp trong việc chiếm hữu của mình.
Ví
dụ: Mua nhầm phải của gian mà không biết. Người bán tài sản không phải là chủ sở
hữu, không được chủ sở hữu uỷ quyền bán những vẫn chuyển dịch tài sản.
- Chiếm hữu khống có căn cứ pháp luật
không ngay tình: Là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật biết đó là chiếm
hữu bất hợp pháp hoặc tuy không biết nhưng cần phải biết rằng người chuyển dịch
tài sản cho mình là người không có quyền chuyển dịch, hoặc buộc phải biết tài sản
đó bị cấm chuyển dịch.
Ví
dụ: Người mua biết là của gian nhưng vẫn mua vì giá rẻ.
Như
vậy, chứng ta thấy rằng cùng là sự chiếm hữu không cồ can ctí nhưng eôn cứ vào
ý chí chù quan của chù thể, pháp luật dân sự phân hiệt thành hai hình thúc: Chiếm
hữu không ch can eứ phảp luật ngay tình và không ngay tình. Sự phân hiệt này cổ
một y nghĩa quan trọng trong thực tiễn nhằm bảo vệ quyền của chù sở hữu và viộc
lựa chọn phương thức kiện báo vệ quyền sở hữu trong giải quyết các án kiện dân
sự.
Vé
nguyên tác, pháp luật dân sự chỉ bảo vệ việc chiếm hữu có can cử pháp luật. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp cụ thề, phitp luật dấn sự bảo vệ quyền lợi cho
những ngườỉ ehìểvn hữu không có can cứ pháp luật nhưng ngay tình.
Vi
thi'. NCu có người thứ ba kiên đòi lại vật, thì người chiếm hữu khống có cân cứ
pháp luật ngay tình có quyền yêu Cầu người đẵ chuyển dịch tài sản cho mình phải
trả lại những gì họ da nhận. Người chiếm hữu khổng có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình cũng "có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lọi, lợi tửù từ
tài sân theo quy định của pháp luật" (khoản 2 Điếu 194 BLDS). Trong các
trường hợp quy định tậi khoủn 4, Điều ỉ 83 những người này còn có thể trở thành
chú sở hữu theo quy định từ Điều 239 đến Điẻu 244 BLDS.
Ngoài
ra trong những diều kiện nhất định: Liên tục (Điéu 190), công khai (Điều 191)
và trong một khoảng thời hạn mười năm dối với động sản, ba mươi năm đối với bất
động sản, thì người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhung ngay tình còn được
hưởng quyén xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Họ có thể trở thành chủ sờ hữu
các tài sản đố kể từ thời điểm bất đẩu chiếm hữu. Quy định này không áp dụng nếu
tài sân dó thuộc sở hữu Nhà nước (Điều 247 BLDS).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét