Giai đoạn 1945 -1959

Sau khi Quốc hội Nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua bản hiến pháp mới vào ngày 9/11/1946, ,
thì các nguyên tắc cơ bản về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân,quy định vể sở
hữu... đã được chính thức ghi nhận. Hiên pháp 1946 đã tạo cơ sở pháp lý và từ
dây quyển sở hữu tài sền riêng công dân đã trở thành quyền hiến định.
Cùng với việc ban hành
hiến pháp mới và ghi nhận quyền sở hữu
hợp pháp của công dân, thì một trong những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc bấy gỉờ là phải xoá bỏ quyền
sở hữu đối với các tư liệu sản xuất quan trọng của thực dân Pháp, của các đế quốc
khác, các thế lực phản động và thù nghịch, của giai cấp địa chủ phong kiến. Mọi
đặc quyền đặc lợi của các thành phần phản động, bóc lột, ngoại kiều cũng bị xoá
bỏ. Việc xây dựng một cơ sở kinh tế mới tập trung trong tay Nhà nước chính là
cơ sà vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của thể chế chính trị mới.
Để thực hiện được nhiệm
vụ đó, Nhà nước ta đã thực hiện hàng loạt các biện pháp thích ứng và đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật để chuyển
các tư liệu sản xuất quan trọng vào tay Nhà nước.
Thông qua nhiều sắc lệnh
như: sắc lệnh ngày 22/9/1945 về việc bãi bỏ các nghiệp đoàn của chế độ cũ trên
toàn Việt Nam. Sắc lệnh này 15/11/1945 về việc bãi bỏ quyên khai trương tuyến
đường hoả xa Hải Phòng - Vân Nam; lệnh ngày 22/1/1950 quy định về quyền phân phối
cấc nguồn khoáng chất trong nước; sắc
lệnh ngày 30/5/1950 quy đình việc trưng
thu, trưng dụng và trưng tập trong thời kỳ kháng chiến v.v. Trên thực tế Nhà nước
ta đã chuyển các xí nghiệp hầm mỏ, hệ thống giao
thông, bưu điện, các nguồn khoáng sản... thành sở hữu của Nhà nước.
Đặc biệt bằng biện pháp
kiên quyết, Nhà nước ta đã ban hành và thực hiện trên quy mô rộng lớn luật cải
cách ruộng đất (ngấy 19/12/1953). Tiến trinh cách mạng trong những nám đâu của
thập niên 50 từng bước thực hiện thành cổng khẩu hiệu "Người cày cố ruộng".
Đây là một két quả có ý nghĩa vô cùng quan trọng cùa cách mạng dân tộc, dân chủ
nhãn dân. Bước đầu đfl xoá bò quyền sỡ hữu của địa chủ, phong kiến vé đất dai,
đổng thời XẮC ỈẠp nên quyén sở hữu ruộng đất cho nhân dân lao động.
Ngoài việc ban hành các
văn bản pháp luật nhầm xoá bỏtĩiệt đế các hình thức sở hữu của chính quyén thực
dân phong kiến thì trong giai đoạn này, tròn cơ sở quy định của Hiến pháp 1946
Nhà nước ta cũng ban hành các văn bản pháp luật nhầm bảo vệ quyến sở hữu hợp
pháp của công dân: Sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950 vé việc sửa dổi một sò quy lệ
và chế định trong dân ỉuẠt; sấc lệnh 85/SL ngày 20/2/1952 ban hành thế lệ trước
bạ vé việc mua bán, cho và dổi nhà cửa, ruộng dất; Nghị dịnh 47/NĐ ngày
12/6/1958 của Bộ Giao thông và Bưu điện ban hành quy định điẻu lệ tạm thời vé
việc dằng ký các phương tiện vận tải đường sông, thuyên buồm đi biển v.v..
Nhìn chung "Quyền
tư hữu tài sản của công dán Việt Nam được bảo dám"(Điéu 12 - Hiến pháp
1946), nhưng theo một tinh thán hoàn toàn mới. Đó là: Người ta chỉ được hướng dụng
và sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không thiệt
hại đến quyề
Pháp luật về sở hữu
giai đoạn 1945 - 1959 đã tạo ra những tiền đề quan trọng trong việc xác lập
quan hệ sở hữu mới dưới chính quyền dân chủ nhân dân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét