Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2014

Các loại sở hữu chung (Phần 2)

b.         Sở hữu chung hợp nhất

Sở hữu chung hợp nhất là hình thúc sở hữu của hai hay nhiêu chủ thể đối với một khối tài sản chung. Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhát có thể phân chia vồ sỏ hữu chung hợp nhất không phân chia. Tính chất đặc thù của sở hữu chung hợp nhất được quy định tại khoán 1 Điều 217 BLDS: "Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyển sở hữu cùa mỗi chủ sđ hữu không được xác định đối với tài sản chung".

Thông thường quyền sở hữu chung hợp nhất chỉ phát sinh trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Điéu 219 BLDS xác định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chống là chủ sở hữu chung hợp nhất. Đó là khối tài sản đo vợ chồng làm ra trong thời kỳ hôn nhân bằng công sức của mỗi người hoặc do được tặng cho chung, thừa kế chung.

Tài sản chung của vợ chồng được dùng vào việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh của cả gia đình. Vợ chồng đều có quyền ngang nhau đối với khối tài sản chung. Vợ chồng cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Khi một trong hai người thực hiện giao dịch mà tài sản có giá trị lớn phải được sự đồng ý của bên kia.
Ví dụ: Khi bán nhà là tài sản chung hợp nhất của vợ, chồng phải được sự đồng ý bằng văn bản (uỷ quyền, hoặc thể hiện bằng chữ ký) của người kia .

Pháp luật dân sự (kể cả Luật hôn nhân và gia đình) quy định như vậy nhằm bảo đảm cho vợ chồng được bình đẳng trong quan hệ gia đình, xoá bỏ chế độ gia trưởng trong gia đình. Cùng với việc quy định tài sản chung, Luật hôn nhân và gia đình cũng quy định về tài sản riêng của vợ và chồng. Đó là tài sản có trước thòi kỳ hôn nhân hoặc được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. Vợ, chồng có thể tự nguyện nhập khối tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của gia đình.

Như vậy, khi hôn nhân còn tồn tại, không thể xác định được phần tài sản cụ thể của vợ, chồng trong khối tài sản chung. Họ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Ngoài tài sản chung của vợ chồng, nếu gia đình đã có con trưởng thành, có thu nhập theo nghề nghiệp, được tặng cho hoặc được thừa kế và có đóng góp công sức, tiền vào việc duy trì, phát triển khối tài sản chung của gia đình, thì họ cũng có quyền sở hữu đối với khối tài sản chung của gia đình.
Phần tài sản cụ thể của mối người chỉ được xác định rõ ràng khi có một trong số họ chết mà những người thừa kế yêu cầu chia tài sàn của người chết, nếu tài sản này thuộc sở hữu chung của bố mẹ và các con; phần cụ thể của mỗi người còn được xác định nếu có lý do chính đáng và họ thoả thuận chia, hoặc tài sàn được phân chia theo quyết định của Toà án khi ly hôn. Nếu vợ chồng ly hôn, về nguyên tấc tài sản sẽ được chia đôi, nhưng có xem xét đến công sức đóng góp vào việc duy trì và phát triển khối tài sản chung; có ưu tiên cho những người phải nuôi và chăm sóc con còn nhỏ.


Tóm lại: Trong sở hữu chung hợp nhất các chủ sở hữu chung có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung ngang nhau, nếu không có thoả thuận khác.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét