Quan hệ pháp luật dân sự
vé sử hữu cũng như các quan hệ pháp luật dân sự khác bao gồm những yếu tố cấu
thành quan hệ đó: Chủ thể, khách thể và nội dung quyền sở hữu.
Việc phân tích các yếu
tố cấu thành quan hệ pháp luật dân sự vé sở hữu dưới dạng cụ thể, riêng biệt có
ý nghĩa cho việc nghiên cứu từng yếu tố khi phải xem xét chúng trong những trường hợp cu thế. Trên thưc tế ba yếu tố trong
đây thường có mối quan hộ khăng khít, biện chứng, bởi thiếu một trong các yếu tố
đố, thì không thể hình thành quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu.
Chủ thế của quyền sở hữu
là những người tham gia quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu.
Để trở thành chủ sở hữu,
trong một số trường hợp pháp luật dân sự quy đinh phải có những điều kiện nhất
định. Đối vói công dân, để trở thành chủ sở hữu phải có năng lực pháp luật và
trong một số trường hợp phải có năng lực hành vi.
Mặt khác, có những tài
sản BLDS quy định chỉ thuộc quyền sở hữu của nhũng chủ thể riêng biệt như: Điều
200 BLDS quy định: Tài sản thuộc sở hữu nhà nước bao gần đất đai, rừng tự
nhiên, rừng trồng có vốn từ ngân sách nhà nước, núi sông hồ, nguồn nước, tài
nguyên trong lòng đất.
Đối với những tài sản vồ
hình (quyền sở hữu trí tuệ), thì chủ thể quyền sở hữu là những "người"
được pháp luật dân sự công nhận. Đó là chủ sở hữu tác phẩm báo gổm: tác giả,
các đồng tác giả, cơ quan tổ chức giao nhiệm vụ cho tác giả, cá nhân hoặc tổ chức
giao kết hợp đồng sáng tạo với tác giả, người thừa kế theo di chúc hoặc người
thừa kế theo pháp luật cùa tác giả... (Quy định tại Điều 740 BLDS). Trong quyền
sở hữu công nghiệp, chu sở hữu có thể được xác nhận theo văn III bằng bảo hộ.
Người có tên trong văn
bằng bảo hộ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp là chủ sở hữu và có quyền sở
hữu đối với sáng chế, giải pháp hữu ích. kiểu dáng công nghiệp, nhăn hiệu hàng
hóa v.v. được xác lập theo văn bằng bảo hộ.
Các chủ thể của quyền sở
hữu trí tuệ có các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoat theo quy định tại
phán thứ sáu BLDS.
Do tính chất và đặc
trưng cùa quan hệ pháp luật vẻ sở hữu nên một bên chủ thể luôn được xác định và
có các quyến nâng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình, còn chủ thể
phía bên kia là tất cả những thành viên trong xã hội. Những thành viên này chưa
được xác định cụ thể nhưng họ có nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền năng của chủ
sở hữu. Nghĩa vụ này được thể hiện ở việc không được xâm phạm đến các quyền của
chủ sò hữu dưới dạng hành động hoặc không hành động. Ví dụ: Không được xâm phạm
trực tiếp hoặc gián tiếp đến các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu. Người
thuê nhà không được tự ý sửa chữa hoặc làm thay đổi kiến tróc nhà khi chủ sở hữu
chưa đồng ý. Nếu bên thuê nhà vi phạm cố thể bị bên cho thuê nhà đơn phương
đình chỉ thực hiện họp đồng theo quy dinh tại khoản 1, Điều 498 BLDS.
Ngoài ra, để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, pháp luật còn quy đinh các thành viên trong xã
hội khống được tiến hành những hành vi khác làm cản trở việc thực hiện các quyền
năng của chủ sở hữu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét