Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2014

Chủ thể của quyền sở hữu

Quan hệ pháp luật dân sự vé sử hữu cũng như các quan hệ pháp luật dân sự khác bao gồm những yếu tố cấu thành quan hệ đó: Chủ thể, khách thể và nội dung quyền sở hữu.

Việc phân tích các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật dân sự vé sở hữu dưới dạng cụ thể, riêng biệt có ý nghĩa cho việc nghiên cứu từng yếu tố khi phải xem xét chúng trong những  trường hợp cu thế. Trên thưc tế ba yếu tố trong đây thường có mối quan hộ khăng khít, biện chứng, bởi thiếu một trong các yếu tố đố, thì không thể hình thành quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu.

Chủ thế của quyền sở hữu là những người tham gia quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu.

Để trở thành chủ sở hữu, trong một số trường hợp pháp luật dân sự quy đinh phải có những điều kiện nhất định. Đối vói công dân, để trở thành chủ sở hữu phải có năng lực pháp luật và trong một số trường hợp phải có năng lực hành vi.

Mặt khác, có những tài sản BLDS quy định chỉ thuộc quyền sở hữu của nhũng chủ thể riêng biệt như: Điều 200 BLDS quy định: Tài sản thuộc sở hữu nhà nước bao gần đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có vốn từ ngân sách nhà nước, núi sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất.

Đối với những tài sản vồ hình (quyền sở hữu trí tuệ), thì chủ thể quyền sở hữu là những "người" được pháp luật dân sự công nhận. Đó là chủ sở hữu tác phẩm báo gổm: tác giả, các đồng tác giả, cơ quan tổ chức giao nhiệm vụ cho tác giả, cá nhân hoặc tổ chức giao kết hợp đồng sáng tạo với tác giả, người thừa kế theo di chúc hoặc người thừa kế theo pháp luật cùa tác giả... (Quy định tại Điều 740 BLDS). Trong quyền sở hữu công nghiệp, chu sở hữu có thể được xác nhận theo văn III bằng bảo hộ.

Người có tên trong văn bằng bảo hộ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp là chủ sở hữu và có quyền sở hữu đối với sáng chế, giải pháp hữu ích. kiểu dáng công nghiệp, nhăn hiệu hàng hóa v.v. được xác lập theo văn bằng bảo hộ.

Các chủ thể của quyền sở hữu trí tuệ có các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoat theo quy định tại phán thứ sáu BLDS.

Do tính chất và đặc trưng cùa quan hệ pháp luật vẻ sở hữu nên một bên chủ thể luôn được xác định và có các quyến nâng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình, còn chủ thể phía bên kia là tất cả những thành viên trong xã hội. Những thành viên này chưa được xác định cụ thể nhưng họ có nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền năng của chủ sở hữu. Nghĩa vụ này được thể hiện ở việc không được xâm phạm đến các quyền của chủ sò hữu dưới dạng hành động hoặc không hành động. Ví dụ: Không được xâm phạm trực tiếp hoặc gián tiếp đến các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu. Người thuê nhà không được tự ý sửa chữa hoặc làm thay đổi kiến tróc nhà khi chủ sở hữu chưa đồng ý. Nếu bên thuê nhà vi phạm cố thể bị bên cho thuê nhà đơn phương đình chỉ thực hiện họp đồng theo quy dinh tại khoản 1, Điều 498 BLDS.


Ngoài ra, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, pháp luật còn quy đinh các thành viên trong xã hội khống được tiến hành những hành vi khác làm cản trở việc thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét