Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2014

Khái niệm và ý nghĩa của giao dịch dân sự

"Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyên, nghĩa vụ dân sứ' (Điều 121 BLDS).

Từ khái niệm giao dịch dân sự được quy định tại điểu luật này có thể xác định: Hậu quả của việc xác lập giao dịch dân sự là làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lý (hành vi pháp lý đơn phương hoặc đa phương - một bên hoặc nhiều bên) làm phát sinh hậu quả pháp lý. Tuỳ từng giao dịch cụ thể mà làm phát sinh, thay đổi, chán dứt quan hệ dân sự. Giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất đinh, cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch, với những mục đích và động cơ nhất định.

Mục đích của giao dịch dân sự lù lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khỉ xâc lộp giao dịch (Điều 123 BLDS ). Mục đích của giao dịch chính là hậu qua phát lý phát sinh từ giao dịch mà các bôn mong muốn dụt dược khí xác lập giao dịch. Nói cách khác, mục đích ở đAy luôn mang tính pháp lý (mục đích pháp lỷ). Mục đích pháp lý (mong muốn) đố sẽ trờ thành hiện thực, nếu như cấc bôn trong giao dịch thực hiện đúng nghĩa vụ của minh thon qul định của pháp luật. Ví dụ như trong hợp đồng mua bán thỉ mục đích pháp lý của bên mua là so trở thành chủ sở hữu (Ai sản mua bán, bôn bán nhận  tiền và chuyên quyền sở hữu tài sản cho bên mua.

Cũng có những trường hợp hậu quả pháp lý phát sinh không phù hợp với mong muốn ban đầu (với mục đích pháp lý). Điểu đó có thể xảy ra do một trong hai nguyên nhân chính. Nguyên nhân thứ nhát là khi giao dịch đó là bất hợp pháp. Ví dụ như khi người mua đã mua phải đổ trộm cắp thì không được xác lập quyển sở hữu, mà phải có nghĩa vụ hoàn trả lại cho chủ sở hữu tài sản đó (người bán không phải là chủ sở hữu tài sản thì không thể chuyển giao quyền sở hữu tài sản đó cho người mua). Thứ hai là do chính các bên không tuân thủ nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch cố hiệu lực. Ví dụ như sau khi xác lập giao dịch bên bán không thực hiện nghĩa vụ bàn giao vật, cho nên họ phải chịu trách nhiệm dân sự.

Mục đích pháp lý của giao dịch khác với động cơ xác lập giao dịch. Động cơ xác lập giao dịch dân sự là nguyên nhân thúc đẩy các bên tham gia giao dịch. Động cơ của giao dịch không mang tính pháp lý. Khi xác lập giao dịch, nếu như động cơ không đạt được thì điều đố cũng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của giao dịch. Mục đích luôn luôn được xác đinh còn động cơ cố thể được xác định hoặc không. Ví dụ: Mua bán nhà ở - mục đích của người mua là quyền sở hữu nhà, còn động cơ có thể để ở, có thể để cho thuê, có thể bán lại... Tuy nhiên, động cơ của giao dịch có thể được các bên thoả thuận và mang ý nghĩa pháp lý. Trong trường hợp này động cơ đã trở thành điểu khoản của giao dịch, là một bộ phận cấu thành của giao dịch đó (như cho vay tiền để sản xuất - mục đích của người vay là quyền sở hữu số tiền nhưng họ chỉ được dùng tiển đố để sản xuất mà không được sử dụng vào hoạt động khác).


Giao dịch dân sự là căn cứ phổ biến, thông dụng nhất trong các căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền vì nghĩa vụ dân sự; là phương tiện pháp lý quan trọng nhlỉ trong giao lưu dân sự, trong việc dịch chuyển tài sàn và cung ứng dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tàng CÙA lằi CÀ các thành viên trong xã hội. Trong nền sàn xuAt hàng hồa theo cơ chế thị trường, thông qua giao dịch dân sự (hợp đồng), các chủ thể đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh các nhu cầu khác trong dời sống hàng ngày của mình.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét