Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2014

Khái niệm tổ hợp tác

Theo Điều 111 BLDS, tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực cùa Uỷ ban nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những cồng việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự

Nội dung chủ yếu của hợp đồng hợp tác dược quy định tại Điều lll BLDS bao gồm: Mục đích, thời hạn hợp đồng họp tác; họ, tên, nơi cư trú của tổ trưởng và các tổ viên; mức đóng góp tài sản, nếu có; phương thức phân chia hoa lợi, lợi tức giữa các tổ viên; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của tổ trưởng, của các tổ viên; điều kiện nhận tổ viên mới và ra khỏi tổ hợp tác; điều kiện chấm dứt tổ hợp tác và các thoả thuận khác (nếu có)

Theo quy định này, không phải bất cứ sự liên kết nào cũng có thể hình thành tổ hợp tác mà chi những liên kết do ít nhất ba cá nhân trở lên dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xà, phường, thị trấn. Thông qua việc chứng thực, Uỷ ban nhân dân cấp cơ sỏ kiểm tra tính hợp cùa mục đích hoạt động, sự tự nguyện của các thành vỉôn vh các yếu tố khác (tài sản, mức góp vốn, cách thức phân chia hoa lợi, lợi tức...). Pháp luật chỉ quy định tư cách người từ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự mà khổng quy định bất cứ một sự hạn chế  nho khác với tư cách thành viên. Bởi vậy, tổ hợp tác có thể được hình thành từ các thành viên có nơi cư trú khác nhau, mức đóng góp từ tồi sản khác nhau và sự phân chia hoa lợi, lợi tức khác nhau. Trong trường hợp các thành viên tổ hợp tác có nơi cư trú khác nhau, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi các hoạt dộng chính là của tổ hợp tác diễn ra là nơi có thắm quyền chứng thực đóng hợp tác và mặc nhiên được coi là nơi dang ký hoạt dộng của tổ hợp tác. Số lượng thành viên tổ hợp tác có thế thay đổi trong quá trình hoạt động của tổ hợp tác nhưng tối thiểu phải có ba cá nhân tham gia, việc thay đổi thành viôn tổ hợp tác thông qua việc kết nạp tổ viôn mới và ra khỏi tổ hợp tác. Tổ hợp tác có thể nhận thêm thành viên mới khi dược đa số các thành viên đồng ý, nếu không có thoả thuận khác dược ghi trong hợp đồng hợp tác ban đầu đã được chứng thực. Thành viên mới phải chấp thuận cốc điẻu kiện dĩl ghi trong hợp đồng hợp tác. Tuy nhiên, nếu tất cả các tổ viên

chấp nhận yêu cầu về thay đổi nội dung hợp dồng do tổ viôn mới đưa ra, thì hợp đồng hợp tác mới phải dược chứng thực lại. Việc ra khỏi tổ hợp tác chỉ được thực hiện theo các điều kiện này là một trong những nội dung chù yếu của hợp đồng mà các bên phải thoả thuận.


Khi ra khỏi tổ hợp tác tổ viên có quyền yêu cầu nhận lại tài sản đã góp khi hình thành tổ, được chia phán trong khối tài sản chung và phải chịu trách nhiệm thanh toán các nghĩa vụ tương ứng với tài sản mà họ đã nhận. Trong trường hợp việc phân chia tài sản cho thành viên ra khỏi tổ hợp tác mà ảnh hưởng đến việc tiếp tục hoạt động bình thường của tổ thì tài sản sẽ được thanh toán bằng tiền, tổ viên ra khỏi tổ hợp tác sẽ được nhận tiền tương ứng với phần tài sản đó.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét