Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2014

Quá trình thay đổi pháp luật về quá trình sở hữu (P 3)

Giai đoạn 1980 -1992

Để đáp ứng với yêu cầu và phù hợp với tình hình cách mạng trong giai đoạn này, năm 1980 Quốc hội đã ban hành bản Hiến pháp mới. Hiến pháp năm 1980 ghi nhận những định hướng chiến lược và trở thành cơ sở pháp lý để xây dựng hệ thống pháp luật nối chung và pháp luật về sở hữu nói riêng.

Là luật cơ bản của Nhà nước, Hiến pháp 1980 đã ghi nhân phạm vi và bản chất của sở hữu Nhà nước mà các bản Hiến pháp 1946, 1959 chưa quy định. Đó là việc khẳng định: Đất đai, rừng núi, sông hồ, hám mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa, các xí nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp quốc doanh; ngân hàng và tổ chức bảo hiểm; công trinh phục vụ lợi ích công cộng; hộ thống đường sắt, đường bộ, đường không... đều thuộc sở hữu toàn dân (Điều 19 Hiến pháp năm 1980).

Đản Hiến pháp 1980 đã ghi nhận các chế độ sở hữu đang tồn tại ờ nước ta bao gồm các hình thức: Sở hữu Nhà nước hay côn gọi là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, và sở hữu cùa công dân (quy định trong các điều 18, 19, 23, 24,27). Hiến pháp 1980 còn quy định một cách cụ thể về các loại khách thể của những hình thức sở hữu nhất định và ưu tiên cho hai hình thức sở hữu được xác định là sở hữu then chốt. Điều 18 của Hiến pháp đã quy định: 'Thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa vê tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nên kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dán và thành phẩn kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động".

Nhằm cụ thể hóa việc thực hiện Hiến pháp nên các văn bản pháp luật về sở hữu trong những năm đầu của thập kỷ 80 vẫn tiếp tục thực hiện chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trong việc thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa. Theo quy định của Hiến pháp, các văn bản pháp luật đã quy định việc giao quyền sử dụng đất đai (gồm cả đất rừng, đát thổ canh.,.) cho người sử dụng để khai thác giá trị của đất nhưng phải bảo đảm quyền quản lý của Nhà nước:

Quyết định số 201/CP ngày 1/7/1980 của Hội đồng Chính phủ vể việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước; Quyết định số 184/HĐBT ngày 6/11/1982 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Hội đống Chính phủ) về việc đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho tập thể và nhân dân trồng cây, gây rừng.
Đặc biệt, từ khi thực hiện chính sách đổi mới của Đảng,Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về sở hữu.

Pháp luật về sở hữu giai đoạn này đã quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu trong các trường hợp cụ thể; đã xử lý đúng đắn vấn đề lợi ích nên đã trở thành động lực thúc đẩy giao lưu dân sự trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước phát triển manh mẽ. Vỉ dụ:Pháp lệnh về thừa kế ngày 10/9/1990; Pháp lệnh về nhà ờ ngày 26/3/1991; Luật đất đai năm 1987; Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp 11/2/1989...


Ngoài ra, dưới góc độ lập pháp cũng cần phải thấy rằng lP   hiệu lực pháp lý của các văn bản pháp luật về sở hữu ban hành trong thòi kỳ 1980 - 1992 cao hơn so với thời kỳ trước năm 1980, do đó tính ổn định cao hơn. Điều này đă tạo ra tâm lý yên tâm và tin tưởng ở sự bảo hộ của pháp luật đối với các quan hệ sở hữu. Qua quá trình áp dụng trong thực tế, các văn bản pháp luật về sở hữu giai đoạn này đã phản ánh đúng quy luật khách quan và có tính khả thi nên phần lớn được thu hút vào Luật đất đai sửa đổi và BLDS.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét