Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2014

Khái niệm tài sản

Tài sản - với tính cách là khách thể quyên sở hữu - đã được Điều 163 BLDS xác định như sau: 'Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản".Vật có thực chính là đối tượng của thế giới vật chất theo nghĩa rộng bao gồm cả động vật, thực vật, vật với ý nghĩa vật lý ở mọi trạng thái (rắn, lỏng, khí).

Với ý nghĩa là một phạm trù pháp lý, vật là một bộ phận của thế giới vật chất có thể đáp ứng được một nhu cầu nào đó (vật chất) của con người. Tuy nhiên, không phải bất cứ một bộ phận nào của thế giới vật chất đều được coi là vật. Vì vậy, có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này thì được coi là vật nhưng ở dạng khác lại không được coi là vật.

Ví dụ: Không khí trong tự nhiên, nước suối, nước sông, nước biển... không được coi là vật. Nhưng nếu đóng vào bình nước, hay được làm nóng, làm lạnh... lại được coi là vật.
Như vậy, ngoài yếu tố đáp ứng được nhu cầu của con ngưòi, vật có thực vdi tính cách là tài sản phải nằm trong sự chiếm hữu của con người, có đăc trưng giá trị và trở thành đối tượng của giao lưu dân sự.

Do sự phát triển của khoa học, công nghệ, khái niệm vật trong khoa học pháp lý cũng được mở rộng.
Ví dụ: Phần mềm trong máy tính hoặc chất thải nếu sử dụng làm nguyên liệu sẽ được coi là vật, nhưng bình thường không được coi là vật.

Những vật có thực là tài sản không chỉ là những vật tồn tại hiện hữu mà còn bao gồm cả những vật (hay tài sản) chắc chắn sẽ có. Điều 175 BLDS đã xác định loại tài sản này là: hoa lợi và lọi tức. Đây chính là sự gia lãng của tài sản trong nhũng điều kiện nhất định. Tương tự, tĩén và nhũng loại giấy tờ trị giá được bằng tiền cũng được xác định là những loại tài sản có tính chất đặc biệt.

Cần phân biệt tài sàn với khái niệm hàng hóa trong khoa học chính trị I kinh tế học Oà sản phản do con người tạo ra có giá trị và giá trị sử dụng). Giá trị của hàng hóa được xác định bằng lao động xã hội đã bỏ ra dể sản xuất hàng hóa đó. Đất đai, tài nguyên thiên nhiên ỉà vật (tài sàn) nhung không phải hàng hóa vì không gắn vối lao dộng xã hội. Vì vậy, khái niệm tài sản có phạm vi ngoại diện rộng hơn khái niệm hàng hóa.

Ngoài những vật có thực, tiền— tài sản còn được xác đinh là quyền tài sản theo quy định tại Điều 181 BLDS: "Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dán sự, kể cả quyền sỏ hữu trí tuệ”.

Quyền tài sản hiểu theo nghĩa rộng ỉà quyền của cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thục hiện hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu cầu nguời khác phải thục hiện một nghĩa vụ đem lại lại ích vật chất cho mình. Xét theo ý nghĩa này thì quyền sở hữu cũng là quyền tài sản (vật quyền). Quyền yêu cầu người khác thục hiện nghĩa vụ tài sản (trái quyền) cũng là quyền tài sản.. Trên cơ sở quan niệm như vậy, Luật La mã phân loại quyền tài sản (quyền dân sự) thành vật quyền và trái quyền mà không phân thành quyền tài sản và quyền sở hữu .Vì suy cho cùng quyền sở hữu tài sản cũng ỉà quyền tài sản.

Điều 181 BLDS quy định quyền tài sản là quyền trị giá bằng tiền. Theo quy định này, Nhà lập pháp muốn nói tới quyền đối nhân, tức là quyền của một chủ thể đối với một chủ thể khác và quyền này trị giá bằng tiền.

Vậy, theo quy định tài Điều 181, thì quyền tài sản là quyền yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ có giá trị bằng một khoản tiền nhất định như trả nợ, bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu người khác chuyển giao giá trị của một vật. Ví dụ quyền yêu cầu thanh toán giá trị tài sản chung.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lỷ của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phạm vi tài sản với tính cách là khách thể của quyên sở hữu -là không hạn chế. Chúng bao gồm toàn bộ các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng trong xã hội. Nghĩa là quyền sở hữu có thể được xác lập với bất kỳ một loại tài sản nào, miễn là pháp luật không cấm lưu thông dân sự.

Để mở rộng giao lưu dân sự trong điều kiện nền kinh tế thị trường, riêng đối với loại tài sản đặc biệt là đất đai, Luật đất đai và Luật dân sự cho phép những người không phải là chủ sở hữu nhưng cũng có một số quyền năng nhất định theo quy định tại Phần thứ năm BLDS.

Trong cơ chế thị trường, tài sản vô hình đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển khoa học- kỹ thuật, sản xuất hàng hoá, bảo vệ an ninh quốc phòng của một quốc gia. Vì vậy pháp luật bảo vệ quyền sở hữu của các chủ thể đối với các sản phẩm trí tuệ của con người tạo ra - một loại tài sản vô hình”. Trong BLDS Phần thứ sáu quy định về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Đây là những quy định có tính nguyên tấc trong việc bảo vệ các quyền nhân thân và quyển tài sản của các chủ thể tham gia quan hệ sở hữu trí tuệ. Theo nguyên tắc chung, tác giả các tác phẩm văn học nghệ thuật, các đối tượng sở hữu công nghiệp có các quyền nhân thân do Luật dân sự điều chỉnh, chủ sở hữu các đối tượng sở hữu trí tuệ có các quyền chiếm hữu, sử dụng và đinh đoạt các đối tượng sở hữu trí tuệ và được pháp luật về sở hữu bảo hộ các quyền đó.


Quyền sở hữu trí là quyền của cá nhân của tổ chức đối với sản phẩm trí tuệ của mình trong các hoạt động vãn hoá, nghê thuật, trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và chuyển giao cồng nghệ...các quan hệ này tương đối phong phú và phức tạp, cho nên để điểu chỉnh các quan hệ này một cách toàn diện, Nhà nước ta đã xây dụng Luật sở hữu trí tuệ. Vì vậy trong chương trình cử nhân luật sẽ có môn học mới là môn sở hữu trí tuệ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét