Tài sản - với tính cách
là khách thể quyên sở hữu - đã được Điều 163 BLDS xác định như sau: 'Tài sản
bao gồm vật, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản".Vật có thực chính là đối
tượng của thế giới vật chất theo nghĩa rộng bao gồm cả động vật, thực vật, vật
với ý nghĩa vật lý ở mọi trạng thái (rắn, lỏng, khí).
Với ý nghĩa là một phạm
trù pháp lý, vật là một bộ phận của thế giới vật chất có thể đáp ứng được một
nhu cầu nào đó (vật chất) của con người. Tuy nhiên, không phải bất cứ một bộ phận
nào của thế giới vật chất đều được coi là vật. Vì vậy, có những bộ phận của thế
giới vật chất ở dạng này thì được coi là vật nhưng ở dạng khác lại không được
coi là vật.
Ví dụ: Không khí trong
tự nhiên, nước suối, nước sông, nước biển... không được coi là vật. Nhưng nếu
đóng vào bình nước, hay được làm nóng, làm lạnh... lại được coi là vật.
Như vậy, ngoài yếu tố
đáp ứng được nhu cầu của con ngưòi, vật có thực vdi tính cách là tài sản phải nằm
trong sự chiếm hữu của con người, có đăc trưng giá trị và trở thành đối tượng của
giao lưu dân sự.
Do sự phát triển của
khoa học, công nghệ, khái niệm vật trong khoa học pháp lý cũng được mở rộng.
Ví dụ: Phần mềm trong
máy tính hoặc chất thải nếu sử dụng làm nguyên liệu sẽ được coi là vật, nhưng
bình thường không được coi là vật.
Những vật có thực là
tài sản không chỉ là những vật tồn tại hiện hữu mà còn bao gồm cả những vật
(hay tài sản) chắc chắn sẽ có. Điều 175 BLDS đã xác định loại tài sản này là:
hoa lợi và lọi tức. Đây chính là sự gia lãng của tài sản trong nhũng điều kiện
nhất định. Tương tự, tĩén và nhũng loại giấy tờ trị giá được bằng tiền cũng được
xác định là những loại tài sản có tính chất đặc biệt.
Cần phân biệt tài sàn với
khái niệm hàng hóa trong khoa học chính trị I kinh tế học Oà sản phản do con
người tạo ra có giá trị và giá trị sử dụng). Giá trị của hàng hóa được xác định
bằng lao động xã hội đã bỏ ra dể sản xuất hàng hóa đó. Đất đai, tài nguyên
thiên nhiên ỉà vật (tài sàn) nhung không phải hàng hóa vì không gắn vối lao dộng
xã hội. Vì vậy, khái niệm tài sản có phạm vi ngoại diện rộng hơn khái niệm hàng
hóa.
Ngoài những vật có thực,
tiền— tài sản còn được xác đinh là quyền tài sản theo quy định tại Điều 181
BLDS: "Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao
trong giao lưu dán sự, kể cả quyền sỏ hữu trí tuệ”.
Quyền tài sản hiểu theo
nghĩa rộng ỉà quyền của cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thục hiện hành
vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu cầu nguời khác phải thục hiện một
nghĩa vụ đem lại lại ích vật chất cho mình. Xét theo ý nghĩa này thì quyền sở hữu
cũng là quyền tài sản (vật quyền). Quyền yêu cầu người khác thục hiện nghĩa vụ
tài sản (trái quyền) cũng là quyền tài sản.. Trên cơ sở quan niệm như vậy, Luật
La mã phân loại quyền tài sản (quyền dân sự) thành vật quyền và trái quyền mà
không phân thành quyền tài sản và quyền sở hữu .Vì suy cho cùng quyền sở hữu
tài sản cũng ỉà quyền tài sản.
Điều 181 BLDS quy định
quyền tài sản là quyền trị giá bằng tiền. Theo quy định này, Nhà lập pháp muốn
nói tới quyền đối nhân, tức là quyền của một chủ thể đối với một chủ thể khác
và quyền này trị giá bằng tiền.
Vậy, theo quy định tài
Điều 181, thì quyền tài sản là quyền yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ có
giá trị bằng một khoản tiền nhất định như trả nợ, bồi thường thiệt hại hoặc yêu
cầu người khác chuyển giao giá trị của một vật. Ví dụ quyền yêu cầu thanh toán
giá trị tài sản chung.
Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, xã hội nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản
lỷ của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phạm vi tài sản với tính cách
là khách thể của quyên sở hữu -là không hạn chế. Chúng bao gồm toàn bộ các tư
liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng trong xã hội. Nghĩa là quyền sở hữu có thể
được xác lập với bất kỳ một loại tài sản nào, miễn là pháp luật không cấm lưu
thông dân sự.
Để mở rộng giao lưu dân
sự trong điều kiện nền kinh tế thị trường, riêng đối với loại tài sản đặc biệt
là đất đai, Luật đất đai và Luật dân sự cho phép những người không phải là chủ
sở hữu nhưng cũng có một số quyền năng nhất định theo quy định tại Phần thứ năm
BLDS.
Trong cơ chế thị trường,
tài sản vô hình đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển khoa học- kỹ
thuật, sản xuất hàng hoá, bảo vệ an ninh quốc phòng của một quốc gia. Vì vậy
pháp luật bảo vệ quyền sở hữu của các chủ thể đối với các sản phẩm trí tuệ của
con người tạo ra - một loại tài sản vô hình”. Trong BLDS Phần thứ sáu quy định
về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Đây là những quy định có tính
nguyên tấc trong việc bảo vệ các quyền nhân thân và quyển tài sản của các chủ
thể tham gia quan hệ sở hữu trí tuệ. Theo nguyên tắc chung, tác giả các tác phẩm
văn học nghệ thuật, các đối tượng sở hữu công nghiệp có các quyền nhân thân do
Luật dân sự điều chỉnh, chủ sở hữu các đối tượng sở hữu trí tuệ có các quyền
chiếm hữu, sử dụng và đinh đoạt các đối tượng sở hữu trí tuệ và được pháp luật
về sở hữu bảo hộ các quyền đó.
Quyền sở hữu trí là quyền
của cá nhân của tổ chức đối với sản phẩm trí tuệ của mình trong các hoạt động
vãn hoá, nghê thuật, trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực nghiên
cứu khoa học và chuyển giao cồng nghệ...các quan hệ này tương đối phong phú và
phức tạp, cho nên để điểu chỉnh các quan hệ này một cách toàn diện, Nhà nước ta
đã xây dụng Luật sở hữu trí tuệ. Vì vậy trong chương trình cử nhân luật sẽ có
môn học mới là môn sở hữu trí tuệ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét