Sở
hữu chung cộng đồng
Sở hữu chung cộng đồng
là hình thức sở hữu của dòng họ theo huyết thống, theo cộng đồng tôn giáo hoặc
cộng đổng dân cư (thôn, ấp, làng, bản) đối với tài sản được hình thành theo tập
quán hoặc do các thành viên của cộng đồng quyên góp tạo dụng nên.
Ví dụ: Nhà thờ, từ đường,
thánh thất tôn giáo, là sở hữu cộng đồng của dòng họ, hoặc kết cấu hạ tầng phục
vụ chung cho cả cộng đồng dân cư: Đường đi, giếng nước công cộng...
Sở hữu chung cộng đồng
do đặc điểm lịch sử được tạo dựng trải qua nhiều thế hệ nhằm mục đích thoả mãn
lợi ích chung của tất cả các thành viên trong cộng đổng. Do đó, các thành viên
của cộng đổng cùng có quyền quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thoả
thuận hoặc theo tập quán vì lợi ích chung của cả cộng đồng. Tuy nhiên, phải
tuân thủ nguyên tắc chung là không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Trong quá trình quản
lý, sử dụng các thành viên phải cùng bàn bạc, thoả thuận. Tuỳ từng loại tài sản
chung cộng đồng mà phương thức quản lý, sử dụng có thể khác nhau.
Vi dụ: Các kết cấu hạ tầng
của cả cộng đồng dân cư, thì mọi người cùng có quyền sử dụng chung và quản lý
theo phương thức đã thoả thuận. Nhưng đối với nhà từ đường (nơi thờ cúng) của một
dòng họ, theo tập quán lại do người con, cháu trai cả, ngành trưởng quản lý,
trông coi để thờ cúng.
Do mục đích của sở hữu
chung cộng đồng là thoả mãn chung lợi ích hợp pháp của cả cộng đồng, nên tai sản
chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không phân chia.
Việc sở hữu chung trong
nhà chung cư về nguyên tắc cũng là sở hữu chung hợp nhất không phân chia như sở
hữu chung cùa cộng đồng. Đối với phần diện tích và trang thiết bị dùng chung
như: lối đi, cầu thang, bể nước... thì các chủ sở hữu các căn hộ trong nhà
chung cư có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý, sử dụng và có
trách nhiệm bảo vệ, bảo đảm an toàn cho những người xung quanh. Việc sử dụng
khoảng không, mặt đất theo quy định của pháp luật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét