Con người 1 với tính
cách là một thực thể xã hội chỉ cổ thể tồn tại và phát triển khi có những cơ sở
vật chất nhất định. Ngay từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người, ý thức về xã
hội, về cộng đồng còn hạn chế nhưng người nguyên thủy đã biết chiếm giữ hoa quả
tự nhiên, chim thứ săn bắt được, những công cụ lao động giản đơn để phục vụ cho
nhu cầu của mình. Sở hữu được hiểu chính là việc chiếm giữ những sản vật tự
nhiên, những thành quả lao động (ngày nay còn giằn cả nhũng tư liệu sản xuất) của
xã hội loài người. Nhiều công trình khoa học nghiên cứu lịch sử, xã hồi, triết
học'., đều đã thống nhất rằng: Sở hữu - một phạm trù kỉnh tế mang yếu tổ khách
quan - xuất hiện và phát triển song song cùng với sự xuất hiện và phát triển của
xã hội loài người.
Mặt khác, con người muốn
tồn lại phải thông qua các mối quan hệ xã hội. Mối quan hệ giữa người với người
trong quá trình chiếm hữu và sán xuất ra của cải vệt chất trong xã hội, là quan
hệ sô hữu. Quan hê sờ hữu phản ánh sự chiếm giữ các tư liệu sản xuất các vật
phẩm tiều dừng giữa người này vói người khác, giữa tập đoàn này với tập đoàn
khác, giữa giai cấp này voi giai cầp khác trong một hình thái kinh tê - xã hội
nhất định, Trên cơ sở phân tích các hình thái kinh tê - xã hội, C. Mác đã chỉ
ra rằng, bất cứ nền sản xuất nào cùng là việc con người chiếm hữu những đối tượng
cùa tự nhiên trong phạm vi một hình thái xả hội nhất định. Vì vậy, sờ hữu là một
phạm trù kinh tế.
Tùy thuộc vào bản chất
của mồi chẻ độ sẽ có một chế độ sở hữu cùng với những quan hệ sở hữu thích hợp,
tương ứng với chế độ xã hội đó.
Trong xã hôi cộng sản
nguyên thủy, do tính chất công đồng xã hội cao nên cuộc sổng của mỗi cá nhân hầu
như hoàn toàn "hoà tan" vào cuộc trong cuộc sống cộng đồng. Vì vậy,
đã tồn tại chế dộ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Trong xã hội cổ sơ này,
con người đã bất đầu chiếm giữ và làm chù các đối tượng của tự nhiên, hoa quả
hái lượm, thú rừng săn bắt được, các sản phẩm cây trồng... Với một nền sản xuất
và tổ chức xã hội giản đơn, nên sở hữu trong thời kỳ nguyên thủy chỉ là một
khái niệm để phản ánh mối quan hê giữa con người với nhau trong việc chiếm giữ
những vật phẩm của tự nhiên mà họ thu giữ được.
Qua quá trình lao động
sản xuất với những kinh nghiệm đã tích luỹ được, trình độ lao động của con người
dần dần được nâng cao. Cùng với sự phân công lao động xã hội, chăn nuỡi và trổng
trọt ngày càng phát triển, năng suất lao động được nâng dần lên và xuất hiện sự
dư thừa sản phẩm. Do năng suất lao động ngày càng cao, hàng hóa trao đổi ngày
càng rộng rãi đã làm cho lượng của cải trong xã hội tăng nhanh. Trong xã hội và
trong nhiều gia đình đã bắt đầu có tích lũy.
Quá trình phân hóa tài
sản bắt đầu hình thành và dẫn đến kẻ giàu, người nghèo trong xã hội. Những người
có quyẻn hành trong các thị tộc, bộ lạc tìm mọi thủ đoạn để chiếm đoạt số của cải
dư thừa đố làm của riêng. Tính chất cộng đổng của xã hội dần dần bị phá vỡ.
Quan hộ bóc lột xuất hiện và trong xã hội đã có sự phân chia đẳng cấp. Xã hội cộng
sản nguyên thủy bị tan rã.
Mâu thuẫn giữa những
người bị áp bức bóc lột và những kẻ áp bức bóc lột ngày càng quyết liệt và
"không thể điều hoà được". Sự phân chia giai cấp ngày càng sâu sắc.
Nhằm bảo vệ lợi ích của mình và để duy trì xã hội trong một "trật tự"
có lợi cho mình, giai cấp áp bức bóc lột với một tỷ lộ ít trong xã hội thấy cần
phải có một bộ máy bạo lực để đàn áp sự phản kháng của giai cấp bị áp bức bóc lột.
Từ đây xã hội phân chia thành các giai cấp.đối lập nhau và xuất hiện Nhà nước.
Khi xã hội đã phân chia
thành giai cấp thì vấn đề sở hữu có một vai trò rất quan trọng trong việc khẳng
định địa vị của mỗi giai cấp trong xã hội. Giai cấp nào sở hữu những tư liệu sản
xuất sẽ chiếm địa vị đặc biệt trong xã hội và trở thành những kẻ (người) có quyền
quyết định vận mệnh của Hố đòng người lao động; tổ chức sản xuất và phân phối
các lợí ích vật chất trong xã hội theo ý chí của mình, làm cho các giai cấp
khác phải lệ thuộc vào giai cấp mình. Vì vậy, giai cấp nám tư liệu sản xuất
trong tay sẽ là giai cấp quyết định chế độ xã hội, là giai cấp nắm quyền thống
trị về chính trị và tư tưởng đối với xã hội.
Toàn bộ những quan hệ sở
hữu chủ yếu trong một xã hộí hợp thành chế độ sở hữu của xã hội đó, măt khác mỗí
một nhóm quan hệ sở hữu có cùng tính chất lại tạo thành một hình thức sở hữu.
Do vậy, chúng ta thấy rằng, tương ứng vối mỗi một phương thức sản xuất có một
chế độ sở hữu thích ứng phù hợp với phương thức sản xuất đó và hình thái kinh tế
xã hội đố. Mỗi một chế độ sở hữu cố thể tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác
nhau. Các hình thức sở hữu này có vaí trò và vị trí khác nhau như thế nào là
tùy thuộc vào tính chất của từng chế độ xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét