Quan hê tại sản là quan
hệ giữa người với người thông qua một tài sản. Quan hộ tài sản bao giờ cũng gắn
với một tài sản nhất định được thể hiện dưới dạng này hay dạng khác.
Tài sản (được khái quát
chung ở Điều 163 BLDS năm 2005) bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền
tài sản. Quan niệm về tài sản không chỉ bó hẹp như những vật vô tri mà còn hàm
chứa nội dung xã hội là những quan hệ xã hội liên quan đến một tài sản.
Tài sản không chỉ bao gồm
vật thuộc về ai, do ai chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà còn bao gồm cả việc dịch
chuyển những tài sản đó từ chủ thể này sang chủ thể khác, quyền yêu cầu của một
hay nhiều chủ thể và nghĩa vụ tương ứng vói các quyền yều cầu đó của một hay
nhiều chủ thể khác trong quan hệ nghĩa vụ cũng được coi là tài sản. Quan hệ tằi
sản rất đa dạng và phức tạp bởi các yếu tố cấu thành nên các quan hệ dó bao gồm:
chủ thể tham gia, khách thể được tác động và nội dung của các quan hệ đó.
- Quan hệ tài sản phát
sinh giữa các chủ thể là những quan hệ kinh tế cụ thể trong quá trình sản xuất,
phân phối, lưu thông và tiêu thụ những sản phẩm, cũng như những cung ứng dịch vụ
trong xã hội. Quan hệ tài sản luôn gắn liền với quan hệ sản xuất và phù hợp vói
quan hệ sản xuất vốn là hạ tầng của xã hội. Quan hệ sản xuất tồn tại không phụ
thuộc vào ý chí của con ngưòi mà nó phát sinh, phát triển theo những quy luật
khách quan. Nhưng những quy luật này dược nhận thức và phản ánh thông qua những
quy phạm pháp luật lại mang tính chủ quan chủ quan - ý chí của giai cấp thống
trị phản ánh sự tồn tại xã hội thông qua các quy phạm pháp luật. Mỗi chủ thể
tham gia vào một quan hệ kinh tế cụ thể đều đặt ra những mục đích và với động cơ
nhất định. Bởi vậy, quan hệ tài sản mà các chủ thể tham gia mang ý chí của các
chủ thể, phù hợp vói ý chí của các chủ thể tham gia và phải phù hợp vói ý chí của
Nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật dân sự. Nhà nước dùng các quy phạm
pháp luật dân sự tác động lên các quan hệ kinh tế, hướng cho các quan hệ này
phát sinh, thay đổi theo ý chí của Nhà nước. Vì vậy, sự tác động của Nhà nước
thông qua các quy phạm pháp luật dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc định
hướng cho các quan hệ tài sản phát triển. Nếu sự định hướng phù hợp với những
quy luật khách quan của sự phát triển thì sẽ thúc đẩy quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất phát triển và ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
Có thể nói rằng quan hệ
tài sản là biểu hiện ý chí của chủ thể, của nhà nước về quan hệ sản xuất trong
một giai đoạn lịch sử nhất định. Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang xây
dựng và hình thành nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu và
hình thức kinh doanh thì việc xác định các quan hệ tài sản phù hợp vói trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất là một định hướng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ nền sản xuất xã hội.
- Quan hệ tài sản do luật
dân sự điều chỉnh mang tính chất hàng hóa và tiền tệ. Định hướng chiến lược của
nước ta hiện nay là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa (Điều 15 Hiến pháp năm 1992). Trong mô
hình kinh tế này, các tài sản được thể hiện dưới dạng hàng hóa và được quy
thành tiền. Sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ để bán, để trao đổi là đặc mọi cá
nhân và tổ chức, khơi dậy mọi tiềm năng của họ, phát huy ý chí tự lực, tự cường
ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Nhưng nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế
thị trường cũng có những mặt trái của nó (cạnh tranh không lành manh, phân hoá
giầu nghèo...). Cho nên, khuyến khích tính năng động, sáng tạo đi đôi với thiết
lập trật tựkỷ cương trong hoạt động kinh tế, bảo đảm cho mọi đơn vị kinh tế
không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh doanh, hợp
tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật. Bởi vậy, cần phải có
hành lang pháp lý vừa mềm dẻo, linh hoạt, vừa chặt chẽ mới có thể đáp ứng được
các yêu cầu trên. Hơn nữa chúng ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế trên
nhiều lĩnh vực, do vậy pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng còn phải
tương thích với pháp luật của các nước trên thế giới và trong khu vực.
-Quy luật của nền kinh
tế thị trường trong sản xuất xã hội chi phối các quan hệ tài sản mà một trong
các biểu hiện của nó là quan hệ tiền - hàng. Sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ
trong nền kinh tế thị trường chủ yếu thông qua hình thức tiền - hàng. Khái niệm
hàng hóa càng ngày càng được mở rộng cùng với sự chuyên môn hóa của nền sản xuất,
cùng với sự phát triển của khoa học- kỹ thuật và quan niệm xã hội về các đối tượng
trao đổi.
-Sự đền bù tương đương
trong trao đổi là biểu hiện của quan hệ hàng hóa và tiền tệ, là đặc trưng của
quan hệ dân sự theo nghĩa rộng. Nhưng không phải tất cả sự dịch chuyển tài sản,
dịch vụ đểu có sự đền bù tương đương như: cho, tặng,thừa kế, sử dụng các tác phản
văn học nghệ thuật... Nhưng các quan hệ này không phải là quan hệ cơ bản và
không phổ biến trong trao đổi; nó không chỉ đơn thuần là quan hệ pháp luật mà
còn bị chi phối bởi nhiều quan hệ xã hội khác (truyền thống, phong tục...).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét