Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014

Thanh toán và phân chia di sản (Phần 3)

2. Phân chia di sản thừa kế

a.         Phân chia di sản theo di chúc (Điều 684 BLDS).

Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc, nếu di chúc không xác định rỗ phần của từng người thừa kế, thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp cố thoả thuận khác của những người thừa kế.



b.         Phân chia tài sản theo luật thừa kế tài sản (Điều 685 BLDS)

Những người thừa kế có quyền phân chia di sản bằng hiện vật, Nếu không thế chia đều bằng hiện vật, thì nhũng người thừa kế cố thể thoả thuận về việc đính giá hiện vật và thỏa thuận vé người nhận hiện vật; nếu không thoả thuận được thì hiện vật được bán để chia (khoản 2 Điểu 685 BLDS).

Khi phân chia di sản, nếu cố người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành một phần di sản bằng phán mà người thừa kế khác được hưởng, để nếu người thừa kế đố cồn sống khí sinh ra, được hường; nếu chết trước khí sính ra thì những người thừa kế khác được hưởng (khoản 1 Điếu 685 BLDS).

3.Hạn chế phân chia di sản

Theo quy định tại Điểu 686 BLDS, trong trường hợp theo ý chí của người lập di chức hoặc theo thoả thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mói được đem chia.
Trong trường hợp nếu có yêu cẩu chia di sản thừa kế, mà hậu quả của việc chia đó sẽ gây ra nhũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Toà án xác định phần di sản của mỗi người thừa kế được hưởng, nhưng chưa cho chia trong một thời hạn nhất định. Thòi hạn hạn chế phân chia di sản thừa kế không quá ba năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Nếu bên còn sống đã kết hôn vói người khác hoặc hoặc thời hạn hạn chế phân chia di sản do Toà án xác đinh đã hết, thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án cho chia di sản thừa kế.

4.         Phân chia di sản trong một sô' trường hợp cụ thể

Theo quy định tại Điêu 687 BLDS, việc phân chia đi sồn trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc cố người thừa kề bị bác bỏ quyền thừa kế thì được giải quyết như sau:

- Trong trường hợp di sản đã được đem chia thừa kế mà xác định được thêm người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, những người thừa kế đã nhận phần di sản được chìa có nghĩa vụ thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phân di sản của người đó tại thời điểm mở thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

Trong trường hợp di sản thừa kế đã được phân chia mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiên tương đương vớí giá trị di sản được hưởng tại thời điểm mở thừa kế cho những người thùa kế, trừ trường hợp cố thoả thuận khác.


Thanh toán và phân chia di sản (Phần 2)

1. Thanh toán các nghĩa vụ tài sản của người chết để lại

Người hưởng thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng với phần tài sản mà mình đã nhận. Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp người chết để lại nhiều nghĩa vụ mà di sản thừa kế không đủ để thanh toán. Vì vẠy, theo Điéu 683 quy định thứ tự ưu tiện thanh toán như sau:

* Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng;

-           Tiền cấp dưỡng còn thiếu;
-           Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ;
-           Tiền công lao động;
-           Tiền bồi thường thiệt hại;

* Thuế và các món nợ khác với Nhà nước;

-           Tiên phạt;
-           Các khoản nợ khác đối với cá nhãn, pháp nhân hoặc tổ chúc khác;
-           Chi phí cho việc bảo quản di sản;
-           Các chi phí khác.

Sau khi đã thanh toán nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại theo thứ tự ưu tiên và các khoản chi phí khác liên quan đến thừa kế, số tài sản còn lại sẽ được phân chia cho những người thừa kế theo luật thừa kế.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: luật dân sự mới nhất, bộ luật dân sự mới nhất, luật dân sự việt nam, luat dan su viet nam, đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, doi tuong dieu chinh cua luat dan su

Thanh toán và phân chia di sản (Phần 1)

Từ thời điểm mở thừa kế đến thời điểm phân chia di sản theo luật thừa kế, di sản cần bảo quản khỏi bị hư hỏng, mất mát Kể từ http://www.luatdansuvietnam.com/2014/09/thanh-toan-va-phan-chia-di-san-phan-1.htmlthời điểm mở thừa kế, những người thừa kế cố các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Vì vậy, sau khi người có tài sản chết, di sản thuộc quyền sỏ hữu của người thừa kế kể từ thời điểm người thừa kế nhận đi sản. Trường hợp di sản là tài sần phải đăng ký quyền sộ hữu thị sau khi đăng ký cổ quyền sở hữu, thì người thừa kế có quyền sở hữu. Như vậy cần phân biệt hai trường hợp di sản là tài sản đăng ký quyền sở hữu:

-  Về nguyên tắc người thừa kế thể hiện nhận di sản thì di sản thực tể cùa họ (chiếm hữu thực tế).
-  Người thừa kế là chù sở hữu tài sản đố kể từ khỉ được cấp giấy tờ chứng nhận quyền sờ hữu.

Vẩh đề trên sẽ liên quan đến thời hiệu của việc thùa kế và quyền sở hữu phát sinh theo thời hiệu. Kẻ từ thời điểm mỏ thừa kế người thừa kế nhận di sản nhưng không yêu cầu chia di sản, nếu người nào chiếm hữu ngay tình di sản đó 30 năm sẽ có quyền sở hữu (Điều 247 BLDS)..


Sau khi mở thừa kế, việc giao di sản chua chia cho ai bảo quản, do nhũng người thùa kếquyểt dinh (trừ trường hợp trong dì chức người để ỉại di sản chỉ định người quản lý di sản và phần chia tài sản). Cổ những tài sản do người thừa kế sử dụng (như cha, mẹ đã cho con sử dụng một ngôi nhà, hoặc cố những tài sản chưa được giao cho ai sử dụng, quản lý). Những người thừa kế có thể cho người đang sử dụng được tiếp tục sử dụng tài sản cho đến khi chia di sản, nhưng đối với tài sản chưa giao cho người nào quản lý, thì những người thừa kế thoả thuận giao cho ai quản lý phừ hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Khi có yêu cầu chia dị sản thừa kế sẽ chia nhung cần phải thanh toán các chi phí bảo quản di sản, các nghĩa vụ của người chết chưa thực hiện.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: luật dân sự mới nhất, bộ luật dân sự mới nhất, luật dân sự việt nam, luat dan su viet nam, đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, doi tuong dieu chinh cua luat dan su

Thừa kế theo pháp luật (Phần 5)

Thừa kế thế vị

Theo nguyên tắc chung trong luật thừa kế tài sản, người thừa kế là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Nhưng pháp luật thừa kế nước ta còn quy định trường hợp khi con của người để lại dí sản chết trước người để lại di sản, thì cháu của người đó được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ cháu được hưởng nếu còn sống. Nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản, thì chát dược hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống. Những trường hợp này gọi là thừa kế thế vị. Ngoài ra, pháp luật còn quy định trường hợp đặc biệt: cha, mẹ chết cùng thời điểm với ông hoặc bà thì cháu thay thế v| trí của cha hoặc mẹ nhân di sản của ông, bà (Điều 677 BLDS).

Vậy, thừa kế thế vị là việc các con (cháu, chất) được thay vào vị trí của bố hoặc mẹ (ông, bà) để hưởng di sản của ông bà (hoặc cụ) trong trường hợp bố hoặc mẹ (ông hoặc bà) chết trước hoặc chết cùng ông, bà (hoặc cụ). Những người thừa kế thế vị được hường phần di sản mà bố, mẹ mình (hoặc ông bà) dáng lẽ được hưởng nếu còn sống, được chia đều di sản vối những người thừa kế khác.


Cháu phải sống vào thòi điểm ông, bà chết là người thừa kế thế vị của ông, bà. Chắt cũng phải sống vào thời điểm cụ chết là người thừa kế thế vị tài sản của cụ.

Đọc thêm: http://www.luatdansuvietnam.com/

Thừa kế theo pháp luật (Phần 4)

Hàng thừa kế thứ hai gồm:

 Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu gọi người chết là ổng nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.

Ông nội, bà nội, ổng ngoại, bà ngoại là những ngườí thừa kế hàng thứ hai của cháu nội, cháu ngoại. Ngược lại, pháp luật dự liệu các trường hợp người chết không còn các con hoặc cố con nhưng con không có quyén thừa kế, từ chối nhận di sản thỉ cháu sẽ được thừa kế của ông, bà.

Anh ruột, chỉ ruột, em ruột là người thừa kế hàng thứ hai của nhau. Anh ruột, chị ruột, em ruột là anh chị em cùng mẹ hoặc càng cha. Một người mẹ có bao nhiêu con đẻ thì bấy nhiêu người con đó là anh, chị, em ruột của nhau, không phụ thuộc vào việc các người con cùng cha hay khác cha, là con trọng giá thú hay ngoài giá thú.

-           Con riêng của vợ và con riêng của chồng không phải là anh chị em ruột của nhau.
Con nuôi cửa một người khổng đương nhiên trớ thành anh, chị, em của con đẻ người đó. Do đó, con nuôi và con đẻ của một người không phải là người thừa kế hàng thứ hai cửa nhau (vì họ không phải là anh, chị, em ruột).

Người làm con nuôi của người khác vẫn là người thừa kế hãng thứ hai của anh chị em ruột của mình. Người có anh, chị,em ruột làm con nuối của người khác vẫn là người thừa kế hàng thứ hai của người đã làm con nuôi của người khác đó.

Họ hàng thứ ba bao gồm: Cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chứ ruột, cậu ruột, cổ ruột, dì ruột cửa người chết (anh chị em ruột của bố mẹ người chết); cháu ruột của người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cổ ruột, dì ruột ruột (con của anh, chị em ruột của người chết). Chất ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Cụ nội của một người là người sinh ra ông nội hoặc bà nội của người đố. Cụ ngoại của một người lã người sinh ra ống ngoại hoặc bà ngoại của người đó.

Trường hợp cụ nội, cụ ngoại chết không có người thừa kế là con và cháu hoặc cố người thừa kế nhưng họ đều từ chối nhận di sản hoặc không cố quyền hưởng di sản thì chắt sẽ được hưởng di sản của cụ.

Người thừa kế là bác, chú, dì, cô ruột của người chết, cháu ruột của người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, dì. Qưan hệ thừa kế của bác, chú, dì và cháu được hiểu như sau:


Anh, em ruột, chị, em ruột của cha mẹ của cháu là những người thừa kế hàng thứ ba của cháu và ngược lại.

Bài viết liên quan
http://www.luatdansuvietnam.com/2014/09/thua-ke-theo-phap-luat-phan-1.html

Thừa kế theo pháp luật (Phần 3)

Diện và hàng thừa kế theo luật


Diện nhũng người thừa kế là phạm vi những người cố quyền hưởng di sản thừa kế của người chết theo quy định của pháp luật. Diện những người thừa kế được xác định dựa trên 3 mối quan hệ với người để lại di sản: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hộ nuôi dưỡng .

-           Quan hệ hôn nhân xuất phát từ việc kết hôn (giữa vợ và chồng).

-           Quan hệ huyết thống là quan hệ do sự kiện sinh ra cùng một gốc "ông tđ' (như giữa cụ và ông, bà, giữa ông bà và cha mẹ, giữa cha mẹ đẻ với con, giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng mẹ khác cha, cùng cha khác mẹ).

- Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ dựa trên cơ sò nuôi con nuối, được pháp luật thừa nhận giữa cha, mẹ nuổi và con nuôi.

Diện những người thừa kế được xép thành ba hàng thừa kế. Thừa kế được phân chia theo nguyên tắc sau: Dì sản thừa kế chỉ được chia cho một hàng thừa kế theo thứ tự ưu tiên: em ruột, chị ruột, em ruột, bác, cô, dì, chú, cậu ruột như không làm con nuôi của người.
-Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ châm sóc, nuôi dưỡng như cha con, mẹ con, thì được thừa kế tài sản của nhau và còn được thừa kế tài sản theo quy định tạị Điều 677 và Điều 678 BLDS.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: luật dân sự mới nhất, bộ luật dân sự mới nhất, luật dân sự việt nam, luat dan su viet nam, đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, doi tuong dieu chinh cua luat dan su

Thừa kế theo pháp luật (Phần 2)

2. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

Theo quy đinh tại Điều 675 BLDS, thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau:
+ Không có di chúc;

+ Di chúc không hợp pháp;

+ Nhũng người thùa kế theo di chúc đều chết trước người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chức không còn vào thời điểm mở thừa kế;

+ Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chức mà không có quyền hưởng di sản, hoặc từ chối quyền hưởng di sản;

Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
-           Phần di sản không được định đoạt trong dí chúc;

-           Phần di sản cổ liên quan đến phần của đi chức khổng có hiệu lực pháp luật;


-           Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chức nhung họ khổng cổ quyển hưởng đi sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chúc được hướng di sản theo di chức, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.

Bài viết liên quan 
Phân chia tài sản: Luật thưa kế (Phần 1)

Thứ Hai, 22 tháng 9, 2014

Phân chia tài sản: Luật thừa kế (Phần 1)

1. Khái niệm về luật thừa kế


Thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống theo hàng thừa kế,điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

Cá nhân có quyền sở hữu với tài sản cửa mình, sau khỉ chết, số tài sản còn lại được chia đều cho những người thừa kế theo luật thừa kế. Người được thùa kế theo pháp luật trong luật thừa kế tài sản là những người có quan hẹ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng.

Nhàng người được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi. Mọi người hình đảng trong việc hưởng di sản thừa kế của người chết, thục hiện nghĩa vụ mà người chết chưa thực hiện trong phạm vi di sản nhận.

Phạm vi nhũng người thừa kế rất rộng, vì vậy pháp luật quy đinh thành nhiều hàng thừa kế. Trong đó hàng thứ nhất là những người cố quan hệ hôn nhân, huyết thống gần gũi nhát so với các hàng khác. Các hàng thứ hai, thư ba là những hàng dự bị nếu như người chét không có những người ở hàng thứ nhất hoặc có nhưng họ đều không nhận hoặc không có quyền nhận.

Những bài viết liên quan:
Phân chia tài sản: Luật thừa kế tài sản(Phần 3)

Luật thừa kế tài sản: Di sản dùng vào việc thờ cúng (Phần 2)

Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó, thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.

Quy định này trong luật thừa kế tài sản nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho người có quyển lợi trong quan hệ dân sự với người để lại di chúc, khi di sản còn lại chưa đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người chết để lại.

Thờ cúng là một nếp sống văn hóa lâu đời của nhân dân ta, thể hiện lòng tôn kính đối với người đã chết. Giáo dục người xung quanh kính trọng những người bậc trên đã chết và nhớ công ơn của họ. Vì vậy, Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các truyền thống tốt đẹp đó, cho phép cá nhân dành một phần tài sản của mình để dùng vào việc thờ cúng. Phần tài sản này không coi là di sản thừa kế.

Di sản dùng vào việc thờ cúng được để lại theo ý nguyện của người lập di chúc, di sản này không chia mà được giao cho một người quản lý. Di sản này có thể là một tài sản cụ thể (cây lâu năm, nhà ở...). Nếu là tài sản hoặc cây lâu nãm, người quản lý có quyền thu hoa lợi, lợi tức và dùng nó để thực hiện việc thờ cúng. Người quản lý không được sử dụng vào mục đích của riêng mình. Không có quyền định đoạt di sản này. Trường hợp người đang quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng mà không có điều kiện để tiếp tục quản lý di sản đó, những người thừa kế sẽ thoả thuận giao cho người khác quản lý.

Điều 670 BLDS không có quy định về tính chất của di sản dùng vào việc thờ cúng (không định tính), mà chỉ định lượng phần di sản dùng vào việc thờ cúng. Vì vậy, người lập di chúc có thể định đoạt bất kỳ tài sản nào trong khối tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để dùng vào việc thờ cúng.

Quy định này để bảo vệ quyền lợi cho người có quyến lợi trong quan hệ dân sự với người để lại di chúc, khi di sản còn lại chưa đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người chết để lại.

Di tặng là một phần (hiểu như dì sản thờ cúng) tài sản mà người lập dí chúc tặng cho người khác với một ý nghĩa kỷ niệm.


Với ý nghĩa trên, giữa người lập di chúc và người được hưởng tài sản có một quan hệ thân thiết nhất định. Người có tài sản muốn giữ tình cảm tốt đẹp đó bằng cách tặng một "món quà" làm kỷ niệm. Người được hưởng tài sản di tặng có quyền sử hữu vói phần tài sản đó, mà không phải gánh chịu nghĩa vụ của người chết để lại. Trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán các nghĩa vụ, phần tài sản thuộc di tặng được dùng để thực hiện nghĩa vụ còn lại của người đã chết.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: luật dân sự mới nhất, bộ luật dân sự mới nhất, luật dân sự việt nam, luat dan su viet nam, đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, doi tuong dieu chinh cua luat dan su

Luật thừa kế tài sản: Di sản dùng vào việc thờ cúng

Nhà nước tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, cho nên, trong Pháp lệnh thừa kế trước đây và ngày nay Điều 670 BLDS đã quy định người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế thực hiện việc thờ cúng.

Điều 670 BLDS quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng như sau:

 Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cứng, thì phần di sản đó khổng được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế, thì những thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cóng cho người khác quản lý để thờ cúng..”.

Một vấn đề đặt ra thế nào là một phần di sản, vấn đề này có thể được giải thích dựa vào lịch sử lập pháp và theo tư duy logic:

- Theo pháp luật dân sự của các Nhà nước Phong kiến Việt Nam, như Luật Hồng Đức, hương hoả là 1/ 20 điền sản, theo luật Bắc Kỳ 1931 và luật Trung kỳ 1936, hương hoả là B 1/5 điền sản ( ruộng đất). Hương hoả được giao cho tôn trưởng quản lý dùng vào việc phụng tự. Như vậy hương hoả chỉ là một phần nhỏ điền sản của người chết để lại cho cháu, con để sử dụng, thu hoa lợi dùng vào việc thờ cúng.

Theo tư duy logic, nếu khối di sản được chia thành 2 hay nhiều phần, thì chỉ được dùng một phần đó để thờ cúng, phần còn lại chia thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng, thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng. Trường hợp này tuy người lập di chúc không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng nhưng trong di chức vẫn xác định rõ dành một phần di sản cho việc thờ cúng (như một khoản tiền, một gian nhà...) thì những người thừa kế vẫn phải cử một người đè quán lý di sản dùng vào việc thờ cúng.


Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết, thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong sỏ những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: luật dân sự mới nhất, bộ luật dân sự mới nhất, luật dân sự việt nam, luat dan su viet nam, đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, doi tuong dieu chinh cua luat dan su

Hiệu lực pháp luật của di chúc

Hiệu lực pháp luật của di chúc là di chúc được thực hiện trên thực tế theo đúng nội dung của di chúc, phù hợp với các quy định được pháp luật đưa ra, đặc biệt là trong luật thừa kế.

Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế.

-           Di chúc không cổ hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:

-           Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;

-           Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.

-           Trong trường hợp cố nhiêu người thừa kế theo di chúc mà cổ người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiêu cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chức không còn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phân di chức có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức không có hiệu lực pháp luật.

-           Di chúc khống có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản dể lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc vé phân di sản còn lại vẫn cố hiệu lực.

-           Khi di chức cố phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đố không cố hiệu lực pháp luật.

-           Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật.


-           Trong trường hợp vợ, chồng cùng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì phần di chúc liên quan đến phần di sản cùa người chết trong tài sản chung chưa cố hiệu lực pháp luật. Sau khi cả hai vợ chồng đều đã chết thì di chóc chung mới có hiệu lực. Pháp luật quy định như vậy sẽ đảm bảo cho vợ hoặc chồng còn sống tiếp tục khai thác tài sản chung cố hiệu quả (quyền hưởng dụng).

Luật thừa kế: Các điều kiện có hiệu lực của di chúc

Theo Luật thừa kế, di chúc là hành ví pháp lý đơn phương thể hiện ý chí của người lập di chúc, do đó để di chúc có hiệu lực thực thi phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung còn phải tuân thủ các điều kiện để được cơi là di chúc hợp pháp. Các điều kiện có hiệu lực di chúc bao gồm:

a. Người lập di chúc phải có năng lực chủ thể

Người lập di chức là người từ đủ 18 tuổi cố đáy đủ năng lực hành vi dân sự, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể lập di chức nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đổng ý. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc.

Pháp luật nước ta công nhận người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Vì vậy, không phân biệt nam, nữ, tỡn giáo, thành phần... Người từ đủ 18 tuổi đều có quyển lập di chức dế định đoạt tài sản của mình cho người thừa kế.

Tuy nhiên, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi (người cố năng lực hành vi một phần) cố thể lập di chức nhưng với điều kiện "lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý". Sự đổng ý ở đây là sự đồng ý cho họ lập di chức. Còn vé nội dung di chúc, họ được toàn quyên quyết định.

b. Người lập di chúc tự nguyện

Người lập di chức phải tự nguyện khi lập di chức; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép. Tự nguyện của người lập di chốc là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của họ,.sự thống nhất trên chính là sự thống nhất giữa mong muốn chủ quan, mong muốn bên trong của người lập di chúc với điều kiện để lập di chúc viết. Vậy trường hợp trên pháp luật cho phép lập di chúc miệng. Tương tự như vậy, vì thiếu điều kiện khách quan, chủ quan mà công dân không thể lập di chúc bằng văn bản có chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyển. Họ lập di chúc bằng văn bản khống có người làm chứng vẫn được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điếu kiện ở mục (a,b,c,d) của phần này. Bởi vậy, trong thực tế cổ nhiều trường hợp do người lập di chúc không am hiểu pháp luật, hoặc có nhiều lý do khác nhau mà họ không thể đến cơ quan công chứng, UBND xã, phường, thị trấn để làm thù tục chứng nhận. Do đó, pháp luật vẫn công nhận di chúc không có chứng nhận, chứng thực là di chúc hợp pháp, nếu người lập di chúc hoàn toàn tự nguyện, minh mẫn, sáng suốt, không bị lùa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép, nội dung không trái pháp luật, đạo đức xã hội.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: luật dân sự mới nhất, bộ luật dân sự mới nhất, luật dân sự việt nam, luat dan su viet nam, đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, doi tuong dieu chinh cua luat dan su

Luật thừa kế: Người thừa kế không có trong di trúc

Trong luật thừa kế, pháp luật có quy định người để lại di sản có quyền truất quyền hưởng di sản cửa những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật Nhưng để bảo vệ lợi ích của một số người trong diện những người thừa kế theo pháp luật, phù hợp với phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, pháp luật đã hạn chế quyền lập di chúc được thể hiện ở Điều 669 BLDS.

Những người sau đầy vẫn được hưởng phần di sản bằng ít nhất 2/3 suất của người thừa kế theo luật, nếu thừa kế được chia theo luật, trừ khi họ từ chối hưởng di sản hoặc không có quyền hường di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc khoản 1 Điều 643 BLDS.

Vẫn đề đặt ra: thế nào là chia theo pháp luật như quy định tại Điều 669 BLDS., hiện nay tồn tại ba quan điểm:

_Thứ nhất là: khi mở thừa kế, nếu hàng thừa kế thứ nhất thực tô còn bao nhiêu người có quyền thừa kế (người từ chối, người mất quyền thừa kê không tĩnh...) chia cho số người đó để xác định một suất thừa kẻ theo pháp luật. Quan điểm này sẽ không phù hợp với các trường hợp như nếu người thừa kế khổng phụ thuộc vào nội dung di chúc là người bị truất quyền thừa kể và nếu hàng thừa kế thứ nhất chỉ có một minh họ, thì chia theo pháp luật phảỉ chia cho hàng thứ hai để tính một suất thừa kế theo pháp luật, và như vậy hàng thứ hai cổ thẻ cố rất nhiều người thừa kế thì quyên lợi của người thừa kế khổng phụ thựôc vào di chức bị ảnh hưởng.

- Thứ hai là khỉ mở thừa kế chia cho những người hàng thừa kế thứ nhất không phụ thuộc vào việc họ có quyền nhận hay không, hoặc từ chối nhận di sản..

Theo quan điểm nầy được giải thích là: xét vè nguyên tấc thì người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chức khổng được hưởng nhưng pháp luật cho phép họ sẽ được hưởng hai phẩn trong một suất mà ỉẽ ra họ được hưởng trong điếu kiện binh thưởng. Như vậy, trong mọi trường hợp, họ không thẻ hưởng dí sẩn nhiều hơn nhũng gì theo pháp luật quy định. Vỉ vậy chia theo pháp luật là chia cho tất cả những người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ nhất mà không phụ thuộc vào việc họ được hưởng hay không. Vì người thừa kế bất buộc cũng lả người không dược hưởng như bị truất, nhung khí chia dể tính một suất thừa kế theo pháp luật ta cũng phải chia cho họ.

Thứ ba, giả thiết không có di chúc, thì di sản sẽ chia theo pháp luật, trên cơ sở đó tính 2/3 của một suất. Tuy nhiên, Điều 669 không đưa ra giả thiết này.

Những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc bao gồm:

a.         Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng

b.         Con đã thành niên mà không có khả năng lao động

Theo truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, trong gia đình các con phải kính trọng, nuôi dưỡng cha mẹ. Ngược lại, cha, mẹ phải nuôi dưỡng các con chưa thành niên hoặc con bị tàn phế không thể tự nuôi sống được bản thân; vợ, chồng phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống; giữa những người này ngoài nghĩa vụ pháp lý họ còn có các nghĩa vụ vẻ đạo đức đối với nhau. Do đó, pháp luật quy định trong trường hợp, họ phải được hưởng một kỷ phần nhất định từ di sản của người đã chết. Điều này phù hợp với phong tục tập quán của nhân dân ta. Tuy nhiên, những người này không được hưởng thừa kế nếu họ vi phạm khoản 1 Điều 643 BLDS.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: luật dân sự mới nhất, bộ luật dân sự mới nhất, luật dân sự việt nam, luat dan su viet nam, đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, doi tuong dieu chinh cua luat dan su

Luật thừa kế: Người lập di chúc (Phần 3)

+Bổ sung di chúc

Người lập di chúc có quyền "bố sung" di chúc đã lập. Phần bổ sung là phần thêm vào nội dung của dí chúc (như di chúc trước đã lập không cho A hưởng nay "bồ sung" thêm cho A hưởng một phần tài sản)

Cũng như việc sửa đổi di chúc, phần bổ sung cũng có thể không hợp pháp nếu như lúc "bổ sung" di chúc người đó không còn minh mẫn hoặc nội dung cùa nó trái với pháp luật, đạo đức xã hội.
Nếu người lập di chúc bổ sung di chúc, mà phần dí chúc bổ sung vẫn hợp pháp, thì di chúc đã lập và phần di chúc bổ sung đều có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, có những trường hợp "Nếu phần di chúc đã lập và phần di chúc bổ sung máu thuẫn với nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật". Trường hợp này được coi là sửa đổi di chúc.

+ Thay thế di chúc

Thay thế di chúc là việc người đế lại di sản lập di chúc khác thay thế cho di chúc cũ vì họ cho rằng những quyết định của mình trong di chúc trước không còn phù hợp với ý chí của họ nữa. Do đó, di chúc trước coi như không có, vì chính người lập di chúc hủy bỏ nếu như việc thay thế dí chúc trong lúc họ còn minh mẫn sáng suốt. Nên một người lập nhiều di chúc vào các thời điểm khác nhau mà nội dung của các di chúc không phủ định lẫn nhau trong trường hợp này tất cả di chúc đều có hiệu lực. Ngược lại, nếu nội dung phủ định nhau thì coi đó là thay thế di chúc.

+ Hủy bỏ di chúc

Là việc người để lại thừa kế từ bỏ di chúc cùa mình bảng cách không công nhận di chúc do mình lập ra là có giá trí. Trường hợp này được coi là không có di chúc. Do vậy, dí sản thừa kế sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật.

Trong trường họp người thùa kế theo di chác là cơ quan, tổ chức thì cơ quan, tổ chức phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.


Người thừa kế theo di chúc cổ quyền nhận hoặc từ chối nhận di sản. Nếu nhận di sản, thì phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng với phần di sản mà mình đã nhận (Điều 637 BLDS). Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thục hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.



Tham khảo: 

Phân chia tài sản: Luật thừa kế

Luật thừa kế: Người lập di chúc (Phần 2)

c.         Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản

Người lập di chúc có quyền giao nghĩa vụ cụ thể cho người thừa kế (như giao cho người thừa kế được hưởng một căn nhà nhưng phải để lại cho một người bạn thân tàn tật mà trước đây vẫn sống nương nhờ vào người để lại di sản được ở một phần căn nhà đó cho đến khi người này chết; hoặc giao cho người thừa kế phải trả một món nợ Nhà nước mà người để lại di sản chưa trả...).

Người lập di chúc có thể giao nghĩa vụ cho một người mà không cho họ hưởng di sản. Trường hợp này không bắt buộc người được giao nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đó. Nếu giao nghĩa vụ và cho hưởng di sản, thì người được giao nghĩa vụ phải thực hiên nghĩa vụ trong phạm vi di sản được hưởng đó.

d.         Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản

BLDS quy định người lập di chúc có quyền chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, ngưòi phân chia di sản. Việc chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia dí sản là hoàn toàn theo ý chí tự nguyện của người lập di chúc. Người lập di chúc có thể cử một người vừa giữ di chúc, đồng thời vừa quản lý di sản và phân chia di sản. Nhưng người lập di chúc vẫn có thể cử nhiều người, mỗi người làm một việc riêng (như: cử ông A giữ di chúc, anh B quản lý tài sản, bà c phân chia tài sản...)

Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, người được chỉ định có thực hiện hay không tùy thuộc vào ý chí chủ quan của họ. Đây không phải là nghĩa vụ pháp lý mà nó biểu hiện tinh thần tự nguyện, đoàn kết giúp đỡ người khác,

e. Người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy di chúc

*          Sửa đổi di chúc là việc người lập dí chúc thay thế một phẩn quyết định cũ của mình đối vớí các phần trong di chúc trước đó. Thông thường sự sửa đổi dí chúc đã lập được hiểu hiện ở những mặt sau đây:

Sửa đổi người được hưởng thừa kế. Có nghĩa tà một dí chúc đã lập có thể đã chỉ định một số người được hường là Q. M. N... sau đó người lập di chóc sửa đổi không cho M hoặc N hưởng nữa mà chỉ dịnh K thay vào vị trí của M hoác N để hưởng di sản.

-           Sửa đổi về quyền và nghĩa vụ chơ ngưởí thừa kế Sửa đổi di chúc còn được thể hiện qua việc sửa đổí về quyền và nghĩa vụ cho người thừa kế, có thể hớt hoặc táng thêm quyền và nghĩa vụ mà người thừa kế phải thực hiện

-           Sửa đổi về câu chữ


Trong di chúc cố thể cố những câu khó hiếu hoặc có tử được hiểu theo nhiéu khác nhau. Người lập dí chúc có quyén sửa đổi những câu, chữ cho rỡ ràng, tránh sự hiếu nhám sau này ảnh hưởng đến quyền lợi cửa những người thừa kế.



Tham khảo: 
Phân chia tài sản: Luật thừa kế 
 


Luật thừa kế: Người lập di chúc (Phần 1)

Người lập di chúc chỉ đính một hoặc nhiều người trong dí chức và cho họ hưởng một phẩn hoặc toàn bộ tài sản của mình. Nếu trong di chức có nhiều người, mỗi người được hưởng bao nhiêu phụ thuộc vào ý chí của người có tài sản. Người cố tài sản thể hiện ý chí của mình, nhưng ý chí đó có được thực hiện hay không phụ thuộc vào hình thức biểu lộ ý chí.

Người lập di chúc ỉà cá nhân cố đầy đủ năng lực hành vi, có các quyền sau đây:

a.         Chỉ định người thùa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế

Người lập di chúc có quyền để lại di sản cho bất cứ cá nhân hoặc tổ chức nào. Người được nhận di sản có thể là cá nhân trong hay ngoài diện thùa kế theo quy đinh của pháp luật hoặc cũng cố thể là Nhà nước, tổ chức kỉnh tế, tổ chức xã hội... Quyền định đoạt của người lập di chức còn được thể hiện thông qua việc họ cố thể truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp luật (như: Cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, em ruột...) mà không nhất thiết phải nêu lý do, người lập di chức cố thể chỉ định một hay nhiều người thừa kế theo luật không được hưởng di sản thừa kế của mình.

b.         Phân định phần di sẩn cho từng người thừa kế

Phân định di sản cho người thừa kế trong trưởng hợp có nhiều người cùng được thừa kế. Nguôi lập di chúc có quyển phân chia di sản cho mỗi người không nhất thiết phải ngang nhau mà không cần phải nêu lý do.

Tham khảo:
Phân chia tài sản: Luật thừa kế 

Khái niệm di chúc và thừa kế theo di chúc

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Theo quy định của luật thừa kế thì di chúc phải có các yếu tố sau

-           Đó là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải là của bất cứ chủ thể nào khác;

-           Mục đích của việc lập di chúc là chuyển tài sản là di sản của mình cho người khác;

-           Chỉ có hiệu lực sau khi người đó chết.

Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, do đó di chúc phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng. Vì vậy, một người muốn định đoạt tài sản của mình bằng di chúc, cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc.

Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người khác còn sống theo quyết định của người đó trước khi chết được thể hiện trong di chúc. Nội dung cơ bản của thừa kế theo di chúc là chỉ định người thừa kế (cá nhân, tổ chức) và phân định tài sản, quyền tài sản cho họ, giao cho họ nghĩa vụ tài sản...

Từ khóa tìm kiếm nhiều: luật dân sự mới nhất, bộ luật dân sự mới nhất, luật dân sự việt nam, luat dan su viet nam, đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, doi tuong dieu chinh cua luat dan su