Thứ Năm, 18 tháng 9, 2014

KHÁI NIỆM PHÁP NHÂN

Ngoài cá nhân tham gia vào các quan hệ dân sự còn có các cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác. Để các tổ chút tham gia vào các quan hệ dân sự với tư cách là một chủ thể riêng biệt trong các quan hệ xã hội nói chung, các quan hệ pháp luật nói riêng các tổ chức này phải có các điều kiện? do pháp luật quy định. Pháp luật dân sự đưa ra khái niệm pháp nhân nhằm phân biệt với thể nhân (tự nhiên nhân) là những cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật.

Từ thời La Mã cổ đại những phường hội, nhà thờ, xưởng thủ công... đã hình thành và ngày càng mở rộng. Ban đầu, những "tổ chức" này không có tài sản riêng của mình mà tài sản do các thành viẽn góp lại như một hình thức sở hữu chung theo phần. Trong trường hợp "tổ chức" bị tan rã (do nhiều nguyên nhân khác nhau) tài sản của tổ chức đó được chia trả lại cho các thành viên theo phần mà họ đóng góp vào. Những tổ chức như vậy không thể tham gia như một chủ thể độc lập trong các quan hệ pháp luật. Trong khi đó, người ta nhận thấy có những trường hợp tài sản của tổ chức không của riêng ai: nhà hát, nhà thờ, một con tẳu... mà của tổ chức đó nói chung. Những tài sản này không của riêng từng người, từng nhóm người, mà là cùa một tổ chức tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên trong các tổ chức đó. Những giao dịch của tổ chức thông qua người đại diện nhưng dưới danh nghĩa bủa tổ chức chứ không phải của cá nhân. Tuy nhiên, khái niệm pháp nhân trong thời cổ đại chưa hình thành.
Trong chế độ Phong kiến việc phân chia lao động tiếp tục phát triển và hình thành ngày càng nhiều những tổ chức như vậy. Đã bắt đầu xuất hiện những công ty khai thác thuộc địa trên lãnh thổ của các nựớe thuộc châu Á, Phi, Mỹ - La tinh.

sản xuất hàng hóa chế ngự trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Trong điều kiện của Chủ nghĩa tư bản, vấn đê củng cố địa vị các tổ chức kinh tế bằng phương tiện pháp lý để các tổ chức này tham gia vào các quan hệ dân sự và thương mại là nhu cầu cấp thiết với các loại hình tổ chức khác nhau và cũng là phương tiện cạnh tranh giữa các nhà tư bản với nhau trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Khái niệm pháp nhân được hình thành và phát triển ở thời kỳ này. Tuy vậy, không có một định nghĩa chung về pháp nhân ở bất cứ pháp luật của một nước nào, mặc dừ ngày nay pháp luật công nhận sự tổn tại của pháp nhân là chủ thể của luật dân sự, luật thương mại. Pháp luật ờ các nước chỉ dùng lại ở việc quy định các dấu hiệu một pháp nhân. Những dấu hiệu của mốt tổ chức cổ tư cách pháp nhân đươc xác định như sau:

-           Sự tồn tại độc lập của pháp nhân mà không phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên trong pháp nhân đó. Vì vậy, pháp nhân được được coi là "cá thể riêng biệt", có ý chí riêng, có "đời sống" riêng, không trùng hợp với ý chí và đời sống của thành viên pháp nhân đó.

-           Các tài sản riêng độc lập với tài sản của các thành viên của nó;

-           Cổ quyển chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản và thưc hiện những hành vi pháp lý nhân danh mình;

-           Có quyền làm nguyên đơn, bị đơn trước Toà án;

-           Trách nhiệm trước tòa án;

Chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiổu thành phần theo cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Cho nên. sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và sự cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế thị trường là điều tất yếu khi mà quy luật giá trị tiền - hàng vẫn tồn tại. Việc các tổ chức (đặc biệt các tổ chức kinh tế của Nhà nước) tham gia vào giao lưu dân sự với tư cách chủ thể các quan hệ pháp luật rất cần thiết cho quá trình sản xuất và trao đổi. Hạch toán kinh doanh xã hội chù nghĩa, kinh tế thị trường cho dù có sự quản lỷ cùa Nhà nước vẫn cần thiết phải có sự tổn tại những tổ chúc sản xuất kinh doanh là những chủ thể độc lập trong các quan hệ nối chung, quan hệ pháp luật dân sự nối riêng.

Khái niệm pháp nhân trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ta được đề cập ở dạng mổ tả các dấu hiệu của pháp nhân như Thông tư 525 ngày 26/3/1975 của Trọng tài kinh tế, Nghị định 17 ngày 16/01/1990 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và Pháp lệnh hợp đồng dân sự ngày 01/07/1991. Các dấu hiộu (điều kiện) được ^quy-đinh ở Thông tư 525 và Nghị định 17 đặc trưng cho các pháp nhân là các tổ chức kinh tế trong điều kiện kế hoạch hóa nền sản xuất, Pháp lệnh hợp đổng dân sự mô tả các dấu hiệu của pháp nhân có tính chất chung và bao quát các pháp nhân ở mọi dạng, thể loại. Điều 84 BLDS mô tả các dấu hiệu (điều kiện) cùa một tổ chức có tư cách pháp nhân là:

-           Được thành lập một cách hợp pháp;

-           Có cơ cấu tổ chức chật chẽ;

-           Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;

-           Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.

Qua các văn bản pháp luật đã ban hành và tính chất chủ thể trong các quan hệ dân sự, kinh tế có thể đưa ra khái niệm pháp nhân như sau:


Pháp nhân là một tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp có tài sàn riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét