Các điều kiện của pháp
nhân là các dấu hiệu để công nhận một tổ chức có tư cách là chủ thể của quan hộ
dân sự. Các điều kiện của pháp nhân được xác định tại Điều 84 BLDS.
a.
Được thành lập một cách hợp pháp
Một tổ chức đươc coi là
hơp pháp nếu cổ mục đích, nhiệm vụ hợp pháp và được thành lập hợp pháp theo
trình tự và thủ tục do luật định. Tổ chức hợp pháp được Nhà nước công nhận dưới
các dạng: Cơ quan nhà nước có thẩm quvền thành lập, cho phép thành lập, dáng ký
hoặc công nhận. Nhà hước băng các quy định về thẩm quyền ra quyết định thành lập,
trình tự, thủ tục thành lập, điều kiện thành lập các tổ chức chi phối đến các tổ
chức tồn tại trong xã hội. Việc công nhận sự tồn tại một tổ chức phụ thuộc vào
hoạt động của tổ chức đó có phù hợp vói lợi ích của giai cấp thống trị hay
không. Một khi sự tồn tại của một tổ chức (không chỉ là tổ chức chính trị) có
nguy cơ đến tồn tại của nền tảng xã hội, ảnh hưởng đến lợi ích của giai cấp thống
trị thì Nhà nước không cho phép nó tồn tại. Bỏi vậy, chỉ những tổ chức hợp pháp
được Nhà nước công nhận sự tổn tại mới có thể trở thành chủ thể tham gia vào
các quan hệ pháp luật. Trong thực tiễn mỗi pháp nhân
được thành lập theo một trình tự riêng phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ của
pháp nhân đó (Quyết định thành lập, cho phép, công nhận).
b.
Có cơ cấu tổ chức
Trước tiên, tổ chức là
một tập thể người được sắp xếp dưới một hình thái nào đó (doanh nghiệp, công
ty, bệnh viện, trường học, hợp tác xã...) phù hợp vói chức năng và lĩnh vực hoạt
động, bảo đảm tính hiệu quả trong hoạt động của loại hình tổ chức đó. Cơ cấu tổ
chức chặt chẽ nhằm biến một tập thể người thành một thể thống nhất (một chủ thể)
có khả năng thực hiện có hiệu quả nhất nhiệm vụ của tổ chức đó đặt ra khi thành
lập. Việc chọn lựa hình thức tổ chức như thế nào căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ
của tổ chức đó, căn cứ vào cách thức góp vốn thành tài sản của tổ chức. Ngoài
ra có thể còn do tính chất, truyền thống về loại hình tổ chức và cả loại tên gọi
của các tổ chức đó. Thống nhất về tổ chức được quy định trong quyết định thành lập,
trong điều lê mẫụ, trong các văn bản pháp luật, trong điều lệ của từng loại tổ'chức
hay từng tổ chức đơn lẻ.
Phải là một tổ chức độc
lập. Một tổ chức độc lập hoàn toàn theo nghĩa rộng không tồn tại trên thực tế
mà bất kỳ một tổ chức nào cũng bị chi phối theo dạng này hay dạng khác: của cá
nhân trong tổ chức đó, của các tổ chức khác và của Nhà nước. Sự độc lập của tổ
chức được coi là pháp nhân chỉ giói hạn trong quan hệ dân sự, kinh tế, lao động
vói các chủ thể khác. Trong các lĩnh vực này tổ chức không bị chi phối bởi các
chủ thể khác khi quyết định các vãn đề có liên quan đến nhiệm vụ của tổ chức đó
trong phạm vi điều lệ, quyết định thành lập và các quy định của pháp luật đối với
tổ chức đó. Pháp nhân có ý chí riêng và hành động theo ý chí cùa mình, chi với
sự độc lập mà pháp luật thừa nhận thì một tổ chúc mới có thể trở thành một chủ
thể tham gia vào các quan hệ pháp luật. Sự tồn tại độc lập của tổ chức còn thể
hiện ở chỗ nó không phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên cùa pháp nhân (kể
cả cơ quan pháp nhân). Có rất nhiều tổ chức thống nhất nhưng không độc lập như
các phòng, ban, khoa... trong các trường học, các tổ chức là một bộ phận cùa
pháp nhân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét