Các quan hệ pháp luật
dân sự rất phong phú, đa dạng về chủ thể, khách thể, nội dung, cách thức phát
sinh... Việc phân loại các quan hộ pháp luật dân sự không chỉ có ý nghĩa về mặt
lý luận mà còn có ý nghĩa cả về mặt thực tế. Để hiểu đúng quan hệ giữa các bên
và áp dụng đúng pháp luật nhằm giải quyết các tranh chấp có thể xảy ra. Mỗi
cách phân lọại đều được dựa vào những căn cứ cụ thể và có ý nghĩa thực tiễn nhất
định.
- Quan hệ tài sản và
quan hệ nhân thân.
Căn cứ vào nhóm quan hệ
mà pháp luật dân sự điều chỉnh quan hệ pháp luật dân sự được phân thành quan hộ
tài sản và quan hệ nhân thân.
+ Quan hệ tài sản luôn
gắn với một tài sản nhất định hoặcchuyển dịch một tài sản từ chủ thể này sang
chủ thể khác (quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng hay thừa kế tài sản...).
+ Quan hệ nhân thân
liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể và về nguyên tắc không thể dịch
chuyển cho chủ thể khác (quyền đứng tên tác giả các tác phẩm văn học, khoa học,
tắc phẩm nghệ thuật, quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín...).
Việc phân định các quan
hệ pháp luật dân sự theo nhóm quan hệ mà luật dân sự điều chỉnh có ý nghĩa như
nếu vi phạm các nghĩa vụ về tại sản sẽ áp dụng các chế tài mang tính chất tài sản.
Ngược lại, nếu vi phạm
các quan hệ về nhân thân sẽ áp dụng các biện pháp khác nhằm hồi phục lại tình
trạng ban đầu (công nhận quyền tác giả, công khai xin lỗi, cải chính...).
- Quan hệ pháp luật dân
sư tuyệt đối, tương đối.
Căn cứ vào tính xác định
của chủ thể quyền và chủ thể nghĩa vụ, quan hệ pháp lụật dân sự được phân chia
thành quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối và quan hệ pháp luật dân sự tương đối.
+ Quan hệ pháp luật dần
sự tuyệt đổi nếu trong quan hệ đó, chủ thế quyền được xác định, tất cả cấc chủ
thể khác là chủ thể mang nghĩa vụ. Nghĩa vụ của họ được thể hiện dưới dạng
không hành động (không thực hiện bất cứ hành vi nào xâm phạm đến quyền lợi của
chủ thể có quyền). Quan hệ tuyệt đối có thể là quyền sở hữu, quyền tác giả đối
với tài sản trí tuệ... Trong những quan hệ này, chủ sờ hữu, tác giả là người có
quyền, những chủ thể khác là chủ thể nghĩa vụ, Họ có nghĩa vụ tôn trọng chủ sở
hữu thực hiện quyền sở hữu của mình, không xâm phạm đến quyền tác giả. Các loại
quyền tuyệt đối thường được pháp luật ghi nhận mà không được tạo bởi sự thoả
thuận của các bên.
Việc xác định này có ý
nghĩa trong việc bảo vệ quyền cho người có quyền. Bất cứ hành vi nào xâm phạm đến
các quyến năng của chủ thể quyền đều coi là vi phạm quyền bảo vộ tuyệt đối.
+ Quan hộ pháp luật dân
sự tương đối là những quan hệ pháp luật trong đó ứng với chủ thể quyền xác định
là những chủ thể mang nghĩa vụ cũng được xác định (trong các quan hệ nghĩa vụ hợp
đồng, bồi thưòng thiệt hại...).
- Quan hệ vật quyền và
quan hệ trái quyền.
Căn cứ vào cách thức thực
hiện quyền để thoả mãn yêu cầu của mình, vào sự tác động của chủ thể, vào hành
vi thực hiện, quan hệ dân sự được phân chia thành quan hệ vật quyền và quan hệ
trái quyền.
+ Quan hệ vật quyền
liên quan đến một vật nhất định. Chủ thể quyền có thể thoả mãn yêu cầu của mình
thông qua hành vi của chính mình, khống phụ thuộc vào hành vi của người khác (sở
hữu, chiếm hữu tài sản...)
+ Quan hê trái quyền là
những quyền thực hiện quyền để thoả mãn yêu cầu của mình thông qua hành vi của
chủ thể có nghĩa vụ, phụ thuộc vào ý chí của người khác. Người có quyền có thể"yêu
cầu" người cố nghĩa vụ thực hiện những hành vi là khách thể của quan hộ nghĩa
vụ trong trường hợp người có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng thì
có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ.
chào ad
Trả lờiXóa